Chuyện chưa biết về vị tướng tình báo hai vợ

Tháng Năm 6, 2011 Bình luận đã bị tắt

Thiếu tướng tình báo Ba Quốc (tức Đặng Trần Đức).

Lẽ ra bài viết này ra đời từ dăm bảy năm trước. Song, có cái kẹt cho người viết: Lúc cao hứng định viết thì bị “cái bệnh nghề nghiệp” cản lại – “coi chừng vi phạm nguyên tắc bí mật”; tới khi phương tiện truyền thông đại chúng có nhiều bài viết về ông, rồi cả một tác phẩm điện ảnh công bố trên truyền hình nói về cuộc đời hoạt động của “viên tướng tình báo hai vợ”, tôi thối chí luôn. Thiên hạ nói cả rồi, toàn những cây viết cự phách, chớ dại mà “múa rìu qua mắt thợ…”.

Bẵng đi mấy năm, khi những bình luận của công chúng về vị anh hùng tình báo huyền thoại, viên tướng tình báo hai vợ, Thiếu tướng Đặng Trần Đức (tự Ba Quốc) có phần lắng xuống theo thời gian thì vào những ngày tháng 4 lịch sử này, bao kỷ niệm trong tôi về ông bùng lên khiến tôi phải cầm bút hầu mong được bổ sung những chi tiết về cuộc đời, sự nghiệp, tình cảm của ông với gia đình, đồng đội, đồng chí… mà các tác giả đi trước chưa đề cập tới.

Chuyến công tác đặc biệt

Sau hơn 8 năm hoạt động ở vùng giáp ranh với địch ở miền Đông Nam Bộ tới chiến trường sông nước Bến Tre thuộc Trung Nam Bộ, giữa năm 1974, tôi nhận được quyết định về công tác tại “tổng hành dinh” Đoàn Tình báo chiến lược J22 – căn cứ đóng tại khu vực Lộc Ninh (thị trấn duy nhất trong vùng giải phóng) thực hiện chính sách “thay quân” đối với những trường hợp hoạt động quá lâu ở vùng yếu. Tôi được bố trí làm Trưởng một bộ môn nghiệp vụ tại A44 do anh Võ Hoàng Vân làm Trưởng ban.

Chưa được nửa năm, đầu tháng 1/1975, anh Võ Hoàng Vân thông báo cho tôi: “Bộ phận A10 (Văn phòng đoàn J22) truyền đạt ý kiến của anh Tư (tức đồng chí Tư Bốn, Trưởng đoàn J22) đầu giờ chiều đồng chí sang gặp anh Tư có việc gấp. Thời đó, cán bộ cỡ như tôi – thăm thẳm nhiều năm ở chiến trường vùng yếu rồi trở thành “lính tò te” ở chiến khu mà được Trưởng đoàn triệu lên gặp riêng, quả là điều đặc biệt. Cả buổi trưa hôm đó tôi sống trong tâm trạng thắc thỏm đợi chờ cuộc gặp gỡ bất ngờ với một nhân vật đặc biệt – Vị Anh hùng đầu tiên của lực lượng Tình báo quân sự trong giai đoạn chiến tranh chống Mỹ, có tên gọi là Tư Bốn.

Đúng giờ hẹn, tôi có mặt tại lán làm việc của Đoàn trưởng ở khu vực căn cứ A10. Ông tiếp khách bằng chè Thanh Hương, thuốc lá Điện Biên bao bạc và kẹo Hải Hà (chắc là có đoàn từ Bắc mới vào). Sau khi thăm hỏi chuyện chiến trường Bến Tre, gia đình, quê quán xong, ông vào nội dung chính ngay.

– Có một việc rất quan trọng tôi cho kêu đồng chí sang để thông báo ý kiến của lãnh đạo sẽ giao cho đồng chí một nhiệm vụ quan trọng…

Tôi như nín thở, chờ nghe tiếp ý kiến của ông – “Theo yêu cầu của Trung ương, đơn vị sẽ cử một cán bộ mới ở trong thành về căn cứ, ra Hà Nội báo cáo gấp. Đi theo đường giao liên, trong khi xưa nay đồng chí ấy chỉ sống trong thành, sức khỏe yếu. Nhiệm vụ của đồng chí là sẽ tháp tùng đưa cán bộ ra Trung ương, đảm bảo tuyệt đối an toàn, với thời gian nhanh nhất. Trung ương rất cần những thông tin của đồng chí này. Kết hợp chuyến đi, đơn vị sẽ có văn bản xin thêm người và tài liệu để khi đồng chí vô sẽ đem theo luôn. Đánh nhau với Mỹ, luôn phải tính tới phương án lâu dài, dẫu rằng ngày toàn thắng đã tới rất gần.

Ông mới nói được chừng đó thì có khách đột xuất. Trưởng đoàn khẽ reo lên:

– Cha!… Sao mà linh vậy. Đang tính nói anh em sang kêu… vô đi anh Ba. Tôi đã tìm được “trợ thủ” cho anh rồi đây.

Vị khách chừng trên năm chục tuổi. Dong dỏng cao, gầy. Có lẽ vì thế mà trông ông càng cao hơn. Gương mặt hiền từ, phúc hậu. Khách vừa ngồi xuống bàn, Đoàn trưởng Tư Bốn quay sang tôi giới thiệu.

– Đây là anh Ba Quốc như tôi vừa nói với đồng chí. Có thể chiều nay hai người sẽ bàn kỹ một số việc. Những thứ cần thiết phục vụ chuyến đi, tôi đã giao cho A10 chuẩn bị. Đồng chí đã nhiều năm sống trong căn cứ, đã từng vượt Trường Sơn rồi coi cần thêm thứ gì thì đề xuất. Chuẩn bị sẵn sàng, khi có lệnh là lên đường ngay. Đoàn sẽ bố trí giao liên sử dụng 2 xe máy chở các đồng chí tới trạm giao liên nào có ôtô thì anh em quay lại. Đồng chí Dương cần lưu ý sức khỏe anh Ba. Nhớ đem theo đầy đủ các loại thuốc thông dụng…

Nghe thủ trưởng giới thiệu khách là Ba Quốc, tôi trố mắt nhìn, tưởng như vị khách mới vào kia là người từ hành tinh khác vừa rơi xuống, bởi cái tên anh nghe có vẻ quen quen, nhưng người thì bây giờ mới gặp. Tôi nhớ mấy tuần trước được nghe anh em đơn vị nói nhỏ với nhau “có một điệp viên cực kỳ quan trọng thuộc một cụm tình báo chiến lược tên là Ba Quốc, quê miền Bắc, vào Sài Gòn từ đầu thập niên 50. Chui rất sâu, leo rất cao, tồn tại qua mấy đời tổng thống. Thời Nguyễn Văn Thiệu trở thành cán bộ cao cấp trong USAID (Cơ quan Viện trợ của Mỹ). Ông bị lộ từ khâu giao thông liên lạc. Một nữ giao thông viên (GTV) đem báo cáo của ông từ Sài Gòn về căn cứ của cụm ở Đồng bằng sông Cửu Long, về tới Tân Châu – Hồng Ngự thì bị bắt. Đơn vị thông báo khẩn cấp nên khi cảnh sát đặc biệt tới bao vây thì ông đã chuồn khỏi nhà trước đó hơn 30 phút và được cơ sở bí mật đưa về căn cứ luôn…”.

Những thông tin liên quan tới kế hoạch giải thoát GTV bị bắt cũng rất ly kỳ, giật gân. Nghe nói khi trinh sát địa bàn đi đón, phát hiện GTV bị bọn cảnh sát Hồng Ngự bắt, đã nhanh chóng trở về căn cứ báo cáo. Lãnh đạo Cụm, một mặt báo cáo khẩn cấp về J22, mặt khác bàn gấp kế hoạch giải thoát bằng cách điều cơ sở bí mật tiếp cận đơn vị thụ lý là cảnh sát Hồng Ngự.

Ngã giá bằng nửa triệu (500.000đ) tiền Sài Gòn lúc đó tương đương 14 chiếc xe môtô hiệu Honda Nhật. Cái bệnh ăn hối lộ đối với chế độ Sài Gòn đã trở thành chuyện “hàng ngày nơi phố huyện”. Với số tiền trên quả là quá lớn so với một cụm tình báo lúc đó. Vì vậy phải báo cáo gấp về trên. Hình như cũng chỉ trong 1 ngày đã có ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo J22. “Dù có phải chi tới một triệu đổi lấy GTV và tài liệu đem về cũng phải thực hiện ngay”. Đơn vị tức tốc thực hiện thì “hàng” đã chuyển về “nhập kho” Tổng nha Cảnh sát Sài Gòn, vì đã hết hạn tạm giữ ở cấp quận, huyện theo quy định của luật pháp.

Tôi giật mình trở về thực tại sau câu hỏi của ông Tư Bốn:

– Nhiệm vụ là như vậy, đồng chí Thái Dương thấy sao?

– Dạ… Không sao! Việc này tôi hứa đảm bảo hoàn thành tốt. Xin hai đồng chí cứ yên tâm.

Ngày hôm sau tôi trở lại A10, chuyển cho chị em ở bộ phận hậu cần bản thống kê những thứ cần chuẩn bị cho anh Ba Quốc: Những tăng, võng, thuốc tây, thức ăn khô, áo mưa, giày, dép, balô… và hướng dẫn anh Ba Quốc việc tập luyện trước khi lên đường. Tất nhiên chỉ tập có mức độ, đề phòng trường hợp có những đoạn đường phải đi bộ không thể đeo nặng như thời chúng tôi tập hành quân.

Khoảng cuối tháng 3/1975, khi căn cứ của J22 đã chuyển xuống khu vực rừng le ở sông Tha La (phía đông núi Bà Đen) thì chúng tôi có lệnh lên đường. Hai chiếc Honda 67 đã đưa tôi và anh Ba Quốc ngược trở lại căn cứ Lộc Ninh và hôm sau đi tới trạm D4A chính thức nhập vào tuyến giao liên của Miền, để từ đó qua Bù Đăng, Bù Đốp, qua các Trạm T10, T9, T8 rồi đi Buôn Ma Thuột…

Thời điểm đó đã thuận lợi hơn cả trăm lần thời chúng tôi cuốc bộ đi vào. Bởi đã có ôtô. Song, ngặt mỗi xe ưu tiên cho đoàn vào nên đoàn đi ra đều phải chờ đợi ở các trạm. Mỗi nơi vài ba ngày. Thời gian chờ đợi lâu nhất đó là cung đường từ trạm có bí số là T10 ra T9 thuộc địa bàn Khu 6. Phải “ăn dầm nằm dề” ở T9 tới 8 ngày (từ ngày 5/4 đến 12/4). Vì là đoàn ưu tiên nên chúng tôi được bố trí trong một chiếc lán nhỏ, đủ căng võng cho 2 người. Hai anh em căng võng sát nhau để tiện tâm sự. Biết anh buồn, sốt ruột vì bị giam chân ở T9 quá lâu nên tôi lôi ra đủ thứ chuyện nhằm giúp anh khuây khỏa.

Từ chuyện quê hương miền Bắc sau ngày giải phóng, chuyện chúng tôi tập luyện trước khi đi “B” và quá trình hành quân vượt Trường Sơn… Nhiều tối, tôi “thay đổi món ăn tinh thần” bằng việc kể chuyện phim, tiểu thuyết, kể cả của ta và nước ngoài như: “Chiếc khuy đồng”, “Lửa trung tuyến”, “Con chim vành khuyên”, “Đất vỡ hoang”, “Sông Đông êm đềm”, “Rừng thẳm tuyết dày” v.v… Tôi biết anh rất chăm chú nghe, vì với anh, đó đều là những chuyện mới vì sống trong lòng địch làm sao có được mà xem, mà đọc.

Để thể hiện tinh thần “có đi có lại”, anh kể cho tôi nghe nhiều chuyện ở Sài Gòn – Từ những hộp đêm, vũ trường, những sinh hoạt của dân “anh chị”‘, tâm trạng các giai tầng xã hội… tới đặc điểm tâm lý, cá tính, sinh hoạt, thái độ chính trị của nhiều nhân vật chóp bu trong chính quyền Sài Gòn qua từng giai đoạn. Thấy anh vui vẻ, nhiều hôm tôi mạnh dạn hỏi anh về chuyện gia đình, vợ con, quá trình hoạt động ở miền Bắc, thời gian vào Nam, Sài Gòn thời đó và bây giờ, thực chất các đảng phái chính trị của chế độ Sài Gòn… Tất nhiên phải tránh những gì thuộc về nguyên tắc nghiệp vụ để gây khó cho anh.

Hồng Ngự – Vùng căn cứ bám trụ của một cụm tình báo thuộc J22.

Càng nghe, càng thêm ngỡ ngàng về một con người tưởng như mộc mạc, lành hiền, ít nói ấy lại chứa đựng tầng tầng lớp lớp kiến thức đa dạng, uyên thâm, như một từ điển sống của cả chế độ miền Nam thời đó. Có lẽ Trung ương cần gặp ông gấp là vậy. Chắc chắn có liên quan tới kế hoạch hậu chiến của địch.

Chứng cứ từ những vết thương

Một buổi tối, đợi anh nghe xong bản tin tiếng Anh của Đài BBC, tôi hỏi: “Anh Ba ơi! Thời kháng chiến chống Pháp, tụi em còn bé tý. Năm 1954 giải phóng miền Bắc mới đang học lớp nhất ở quê, nghe người lớn nói có rất nhiều người di cư vào Nam. Chắc có anh trong số đó?…”. Anh khẽ cười, lắc đầu – “Không! Tôi đã “di cư” từ hơn một năm trước đó”. Tôi há hốc miệng nhìn anh, đầy nỗi ngạc nhiên, rồi nằm xuống, đung đưa cánh võng, mơ hồ thả hồn trôi theo dòng ký ức của anh.

Hoạt động trong lực lượng Tình báo quân sự, địa bàn của Đặng Trần Đức lúc đó là Thành Hà Nội (chỉ đạo một số cơ sở bí mật trong thành). Tất nhiên có đầy đủ giấy tờ hợp pháp, để khi cần có thể vào nội thành. Một đêm cuối năm 1952, từ vùng căn cứ bí mật, anh đột về Gia Lâm gặp cơ sở để nắm tình hình tại hộp thư quy định. Khi trở ra chưa được bao xa thì bị thương do một trái moóc-chê bắn cầm canh từ một bót nào đó. Anh trở lại điểm hẹn, nhờ gia đình cơ sở đưa vào nhà thương trong nội thành, với nguyên nhân ngụy trang là bị ngã xe đạp. Vết thương chưa lành anh đã bị đưa về phòng thẩm vấn của lực lượng cảnh sát.

Được tin này, tổ chức đã cử ngay cơ sở bí mật (một nữ GTV hợp pháp của Đặng Trần Đức) tiếp cận ông chú làm việc tại Sở Liêm Phóng. Trước tình hình đó, cô gái phải “thú thực” đó là “người yêu” của mình, đúng là bị thương do ngã xe đạp. Người chú nghiêm mặt, nói nhỏ: “Đừng có lôi thôi! Những vết thương trên người nó đã trở thành chứng cứ. Đó là mảnh moóc-chê chứ không phải ngã xe…”. Cô gái lặng người, tay vân vê tà áo, trấn tĩnh lòng mình để mãi lâu sau mới nhỏ nhẹ: “Chú ơi! Vậy bây giờ phải làm sao?”. “Chú có thể tìm mọi cách cho nó không bị bắt, nhưng rồi thì phải rủ nhau đi khỏi xứ này ngay. Đi càng xa càng tốt. Không qua mắt bọn “Phòng nhì” được đâu!…”.

Sau khi nghe Đặng Trần Đức báo cáo, lãnh đạo đã cho ý kiến chỉ đạo luôn – “Để đảm bảo an toàn, dứt khoát đồng chí phải chuyển địa bàn hoạt động vào Sài Gòn. Hai người cùng đi. Nếu không, sẽ khó giải thích với chú cô ấy và dễ bị lộ”.

Thiếu tướng tình báo Vũ Ngọc Nhạ (bên phải) và đồng chí Ba Quốc.

Nỗi lòng người đi và kỷ vật để lại

Mạch chuyện được tiếp nối, đó là sự việc diễn ra sau khi Đặng Trần Đức ra viện, trở về báo cáo lại toàn bộ tình hình trên với lãnh đạo…

Theo anh Đức, rất có thể cấp trên (các nhà lãnh đạo tình báo lúc đó – K.M.D.) đã có những dự định quan trọng mang ý nghĩa chiến lược, nên sau khi nghe Đặng Trần Đức báo cáo, lãnh đạo đã cho ý kiến chỉ đạo luôn – “Để đảm bảo an toàn, dứt khoát đồng chí phải chuyển địa bàn hoạt động vào Sài Gòn. Hai người cùng đi. Nếu không, sẽ khó giải thích với chú cô ấy và dễ bị lộ”.

Mới nghe vậy, anh đã vã mồ hôi, chưa biết định trả lời sao thì cấp trên đã tiếp: “Chúng tôi biết đồng chí định nói gì. Nhưng cứ yên tâm, việc này tổ chức sẽ có kế hoạch giải tỏa giúp đồng chí. Cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc còn đầy cam go thử thách, đòi hỏi mỗi chúng ta, kể cả quần chúng nhân dân tiếp tục phải chấp nhận hy sinh, kể cả tình riêng vì sự nghiệp lớn. Hai người cứ yên tâm ra đi, còn gia đình, chị và 2 cháu (Lúc đó Đặng Trần Đức đã có vợ, 2 con. Cháu gái đầu lòng 5 tuổi và cháu trai 2 tuổi) sẽ có tổ chức chăm lo”.

Họ bí mật chuẩn bị, rồi xuống Hải Phòng, lên một tàu buôn thẳng hướng trời Nam. Tôi đang định hỏi trước khi đi 2 người phụ nữ có gặp nhau không, thì anh đã tiếp – Trước lúc lên đường, cô ấy có viết một bức thư ngắn với nội dung: “Do yêu cầu nhiệm vụ của tổ chức, em xin phép được thay chị vào trong đó để chăm sóc anh, giúp anh hoàn thành nhiệm vụ. Hẹn ngày đất nước thanh bình, chị em ta sẽ gặp nhau…”. Phần tái bút có ghi – “Em xin gửi chị một chút quà làm kỷ niệm với tất cả tấm lòng của người đi. Chúc chị khỏe, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, vững lòng tin vào ngày anh trở về”. Cô ấy tháo đôi hoa tai cẩm thạch, bỏ chung vào phong thư, cẩn thận dán lại, nhờ người thân chuyển tới nhà tôi.

Hôm đó là đêm 11/4/1975. Đêm cuối cùng chúng tôi “bám trụ” Trạm T9 để sáng hôm sau có ôtô đưa ra Trạm T8. Tôi trằn trọc cả đêm không sao ngủ được, bởi cảm động trước tình cảm của hai người thân yêu nhất của huynh trưởng tôi. Chuyện thật mà cứ như là trên phim ảnh.

Bình phong chức nghiệp

Đáp lại thịnh tình của “đại ca” sau bao đêm kể cho tôi nghe cuộc đời hoạt động của anh trong kháng chiến chống Pháp. Cả ngày và đêm 13/4 nghỉ tại Trạm T8, tôi kể với anh đôi nét về bản thân mình những ngày mới vào chiến trường. Thực ra những chuyện đó nói với anh có khác gì một sĩ quan tập sự đứng trước vị tư lệnh tài danh – Thời đó đơn vị cũng chuẩn bị tư thế cho tôi vào hoạt động hợp pháp tại Sài Gòn. Tôi được mang họ tên khác, quê quán tại Gia Lộc, Hải Dương (chứ không phải Quảng Oai – Xứ Đoài quê tôi).

Về năm sinh, trong căn cước tăng lên 7 tuổi so với tuổi thực của tôi. Đi lính Sư đoàn 7. Năm 1954 tập kết vào Trà Vinh. Do bệnh yếu tim nên được giải ngũ, về cư ngụ tại Lai Khê, Bến Cát, tỉnh Bình Dương, làm giáo sư bậc trung học. Nghe tới đây, anh khẽ gật gật đầu – “À! Thế là đồng chí bình phong chức nghiệp nghề giáo dục. Chắc là phải tìm hiểu kỹ ngành này và binh chủng pháo binh?”. “Dạ có. Em đã có thâm niên 4 năm lính pháo binh 105 ly và qua Trường Hạ sĩ quan Pháo binh Quân khu Tây Bắc, đồng thời làm giáo viên kiêm chức ở đơn vị…”. “Thế thì bình phong chắc lắm. Nhưng sao không bố trí vô thành?”.

“Thời đó tụi nó bắt lính như điên. Dù đã làm giấy tờ tăng hơn tới 7 tuổi nhưng trẻ quá, khỏe như vâm. Nó mà kiểm tra lại sức khỏe thì “xôi hỏng bỏng không”. Vì vậy, đơn vị chưa dám đưa vào. Phải chờ thời…”. Nhắc tới những chuyện này, tôi như đã đưa anh trở về với những tháng năm tung hoành ngay giữa sào huyệt của địch. Anh hồ hởi, phấn chấn xen vào mạch chuyện của tôi.

“Nghề của chúng ta, bình phong chức nghiệp là cực kỳ quan trọng. Bình phong tốt là đảm bảo bảy, tám mươi phần trăm thắng lợi. Ngoài ra, câu chuyện ngụy trang trong tiếp xúc cũng rất quan trọng. Đôi khi nhờ nó mà rất được việc, rút ngắn thời gian vòng vo tìm hiểu. Thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, tôi đi sâu tìm hiểu về đảng “Cần lao nhân vị” tìm cách tiếp cận một số tên tai to mặt lớn trong tổ chức này. Khi đã “vào cạ”, có tên thân mật hỏi – “Nè!… anh Ba (gọi theo thứ bậc anh em trong gia đình. Còn tên thường gọi của anh ở Sài Gòn cho tới nay tôi vẫn chưa biết – K.M.D.) dân ngoải (ngoài ấy) vô, hiền khô, coi mòi chơi được, không như mấy cha nội kia, dựa hơi Tổng thống làm phách lắm. Vô khi nào vậy?…”. “Thì… Tổng thống vô khi nào thì mình vô khi đó…”.

Thế là từ đó đi công cán hoặc thị sát địa phương nào là họ đều mời đi cùng “về miệt vườn ít bữa cho khuây khỏa. Bám hoài đất đô thành chán thấy mồ”. Có lần về An Giang, không hiểu họ giới thiệu về mình ra sao mà mấy tay chóp bu bản xứ lại lầm tưởng mình là phái viên Trung ương đảng “Cần lao nhân vị” về kiểm tra nên tất cả đều chạy rối giò, đón tiếp linh đình. Hơn 20 năm sống giữa Sài Gòn với bao điều trắc ẩn bủa vây, phải bình phong nhiều vai diễn, tiếp xúc với mọi giai tầng xã hội, phải chứng kiến bao nỗi xót xa của những phận đời đau khổ; phải tiếp xúc với những tên trùm tội phạm, tội ác tày trời, dẫu lửa căm thù ngùn ngụt trong lòng mà vẫn phải thản nhiên như không.

Sống trong khu cán bộ cao cấp của ngụy quyền Sài Gòn, sống giữa đô thành hoa lệ… mà quá cô đơn. Đôi khi tôi nghĩ, cái nghề của ta nó nghiệt ngã quá đồng chí Thái Dương ạ! Mấy chục năm hoạt động an toàn, các cơ sở bí mật đang phát huy tác dụng tốt phục vụ cho giai đoạn quyết liệt này thì tai họa ập tới, hoàn toàn do yếu tố khách quan, để bây giờ rơi vào cảnh này… không hiểu vợ con tôi trong ấy bây giờ ra sao? Kẻ thù của chúng ta thâm hiểm lắm…

Thông cảm với tâm trạng anh, tôi lựa lời động viên, rồi pha vui “Các cụ ta đã chẳng từng đúc kết – sinh nghề tử nghiệp là gì”.

Hơn 2 tuần hành quân, vạ vật ở mấy binh trạm, mưa nắng thất thường, lại chưa thích nghi với thời tiết, sức khỏe của anh sút giảm, kém ăn, ít ngủ, rồi cảm sốt. Tôi bỗng trở thành y tá, hộ lý chăm sóc anh, bắt uống thuốc, ép ăn cơm. Cơm ở binh trạm chẳng có gì ngoài bí ngô và cá khô. Nhờ có kinh nghiệm của những ngày vượt Trường Sơn, tôi mò vào rừng hái lá chua về nấu canh cho anh. Một mớ lá bứa non bỏ vào ăng-gô nấu sôi lên, bỏ vào vài thìa ruốc thịt (thịt chà bông), thêm tý mì chính là có một món canh chua tuyệt vời. Ngày có xe rời trạm T8, dẫu vừa dứt sốt nhưng thấy anh khỏe ngay.

Tây Nguyên và các tỉnh duyên hải miền Trung đã giải phóng, xe chạy ra Buôn Ma Thuột, rồi từ đó theo Quốc lộ 19 về Bình Định, theo Quốc lộ 1 ngược lên phía bắc, về Trạm Z7. Nghe lái xe nói vậy chứ cũng không biết Z7 đặt ở tỉnh nào. Thời đó Quốc lộ 1 xấu lắm, nhiều cầu, nhiều phà, phải dừng nghỉ thêm 2 chặng đường Quảng Ngãi và Đông Hà. Ngày 24/4 tới Z7, mới biết đó là thị xã Quảng Bình rồi xe quay trở vào phía Nam. Chúng tôi phải nằm lại Quảng Bình chờ chuyến xe ra. Ngày nào cũng ngóng xe mà không có. Với tính chất của đoàn ưu tiên đặc biệt, tôi khẩn khoản trình bày với trạm trưởng, nên tới ngày 29 ông phải xuất chiếc xe dự phòng của trạm đưa đoàn ra Hà Nội.

“Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt”

Tôi xin mượn một câu trong bài “Đất nước” – bài thơ nổi tiếng của Đại tá, nhà văn Nam Hà để đặt cái tít phụ cho phần cuối của bài viết này, nó liên quan tới anh, phụ thân và các em của anh.

Xe về tới Hà Nội đúng 15h ngày 30/4. Vì lái xe không biết đường nên lạc tới Nhà hát Lớn. Đường phố tắc nghẽn vì nhân dân thủ đô tràn xuống đường reo mừng chiến thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam. Luẩn quẩn tới 4 giờ chúng tôi mới về được Trạm 66 của Bộ Quốc phòng trên đường Hoàng Diệu. Nơi mà 10 năm trước tôi xuất phát từ đó vô Nam. May còn nhớ số máy trực của Cục II, tôi điện vào thành, chỉ 15 phút sau đã có 2 sĩ quan một cấp úy và một cấp tá ra đón.

Sau khi sắp xếp cho lái xe ăn nghỉ ở trạm, các anh lại yêu cầu chúng tôi lên xe, tất nhiên bây giờ là xe của Cục. Tôi đoán mò và nói với anh Ba Quốc: “Đây là trạm của Bộ, chắc là các anh ấy đưa về “nhà nghỉ của Cục”. Xe chạy ra đường Cột Cờ “nay là Điện Biên Phủ) rồi rẽ vào đường Nam Bộ (nay là đường Lê Duẩn) chạy về phía nam, qua Công viên Thống Nhất rồi rẽ phải vào khu tập thể Kim Liên, dừng lại trước dãy nhà 5 tầng, đánh số B13. Đồng chí Trung tá đỡ anh Ba Quốc xuống xe rồi chỉ vào những người đang đứng trước cửa vào cầu thang nhà B13: “Anh Ba nhìn xem trong số bà con đứng kia có ai là người thân của anh không”.

Ba Quốc đứng lặng như trời trồng, bỗng dưng anh lao tới, ôm chầm lấy ông già râu tóc bạc phơ – “Bố! Bố ơi!…”. Hai cha con nghẹn ngào, nức nở, khiến chúng tôi đều rơi nước mắt. Một thanh niên chừng gần 30 tuổi, đứng kế bên, nắm chặt tay anh, nghẹn ngào – “Em là Đặng Dung – em ruột của anh đây. Ngày anh đi em chưa đầy 10 tuổi. Còn đây, (chỉ sang cô gái đứng bên hai mắt đỏ hoe) là Bình – vợ em, em dâu của anh…”. Ba Quốc đi bắt tay tất cả bà con có mặt. Rồi tất cả chúng tôi kéo lên tầng tư, phòng số 43 căn hộ của gia đình được Nhà nước phân phối.

Sau giây phút hàn huyên, tôi được biết Đặng Dung công tác ở Bộ Văn hóa, lĩnh vực xuất bản. Làm việc ở số 10 phố Đường Thành. Anh thông báo với anh trai mình và cũng là để cho mọi người đều biết: “Vì đột xuất nên chưa thông báo kịp cho chị và các cháu. Chị công tác trên Vĩnh Phúc. Cháu gái lớn, ngày anh đi nó mới 5 tuổi, giờ đã lấy chồng và anh đã trở thành ông ngoại rồi. Còn cháu trai đã học xong và đi công tác…”.

Thế là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo Đoàn J22 giao phó. Chia tay anh và gia đình theo xe của đơn vị về Trạm 66, cả đêm đó không sao ngủ được, lòng rạo rực bởi cái không khí tưng bừng reo vui của cả nước. Song, hình ảnh khắc ghi mãi trong tôi buổi chiều hôm ấy chính là giây phút huynh trưởng của tôi, nhà tình báo huyền thoại Đặng Trần Đức gặp gỡ gia đình sau hơn 20 năm xa cách. Cảm xúc hóa thành thơ, tôi xin trích mấy câu trong một bài thơ dài sáng tác đêm hôm đó để nói nên tâm trạng của mình: “…Ta ngợp trong rừng cờ, rừng hoa/ Lạc giữa phố phường Hà Nội chiều Ba mươi tháng Tư/ Ta như đi trong mơ/ Giấc mơ của bao năm chinh chiến/ Nước mắt rơi rơi sau bao nhiêu hò hẹn/ Để chiều nay khóc nghẹn buổi tao phùng…“.

Vĩ thanh

Kết thúc chiến tranh, tôi chuyển ngành, công tác trong Lực lượng An ninh thuộc Bộ Công an. Người lính hậu chiến với bao vất vả, lo toan, bươn chải vì cuộc sống, lầm lũi tối ngày vì miếng cơm manh áo, vì chỗ đứng, chỗ ngồi… làm gì có thời gian nghỉ ngơi, xả hơi, chơi bời, thăm thú. Nhưng chẳng có ai nỡ trách cứ nhau là bạc tình, bạc nghĩa; chẳng mấy ai than nghèo, than khổ… cho rằng thực tế đã cực khổ, cực nghèo… quá khứ hào hùng đã khỏa lấp tất cả.

Phải nhiều năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tôi mới có dịp tới thăm thủ trưởng cũ của mình ở khu nhà công vụ của Tổng cục Tình báo trong thành Hoàng Diệu. Thời chiến tranh chống Mỹ ông giữ cương vị Phó cục trưởng Cục Nghiên cứu (nay là Tổng cục II) phụ trách tình báo miền Nam. Không ngờ hôm đó lại có cả anh Đặng Trần Đức. Thật là duyên kỳ ngộ. Chính ông Nguyễn Như Văn (Thủ trưởng cũ của tôi), hồi ở căn cứ Lộc Ninh cuối năm 1974 đã giới thiệu với ông Tư Bốn, Đoàn trưởng J22 cử tôi đưa anh Ba Quốc ra Hà Nội. Bấy lâu gặp lại, xiết bao vui mừng. Thủ trưởng cũ của tôi trở thành người đứng đầu Lực lượng Tình báo quân sự với quân hàm Trung tướng, Tổng cục trưởng; huynh trưởng của tôi – nhà Tình báo Đặng Trần Đức (Ba Quốc) đã được Nhà nước phong quân hàm Thiếu tướng, giữ cương vị Cục trưởng một Cục nghiệp vụ.

Cuộc hội ngộ ấy đã làm sống dậy trong tôi bao kỷ niệm xưa, bao điều day dứt cũ. Có những thực tế đến đắng lòng. Đó là cái hôm ở Trạm giao liên T9 (ngày 12/4/1975). Hôm ấy, sau khi nghe bản tin chiến sự trên radio xong, anh Ba Quốc dè dặt hỏi tôi – “Ngày còn ở Sài Gòn… tôi nghe đài Gươm Thiên… nó bôi nhọ cán bộ Hợp tác xã của mình tệ quá. Tỷ như… “Mỗi người làm việc bằng hai/ Để cho Chủ nhiệm mua đài mua xe/ Mỗi người làm việc bằng ba/ Để cho chủ nhiệm xây nhà xây sân”. Bậy! Bậy bạ quá!… Nghe tức lộn ruột mà không dám phản ứng! Đã làm tới chủ nhiệm, hẳn phải là đảng viên! Mà đảng viên nào lại ăn cắp mồ hôi nước mắt của quần chúng?…”.

Ôi! Trước niềm tin thánh thiện ấy, tôi không thể nói gì khác hơn bằng việc lên án những luận điệu trên (đành rằng trong thủ đoạn tuyên truyền kẻ địch có thể dựa vào hiện tượng có thật; cũng có thể xuyên tạc bịa đặt hoàn toàn để chống phá ta) – “Nó nói bậy đó anh Ba ạ! Đây là đài “Gươm Thiên Ái quốc”, đài chiến tranh tâm lý do ngụy quyền Sài Gòn dựng lên để tuyên truyền tác động tư tưởng người nghe…”.

Bây giờ ngẫm lại, đất nước sau đổi mới, có biết bao điều người ta đã nói, đã công khai phê phán cái bệnh chủ quan, duy ý chí thiếu dân chủ; cái bệnh tham ô, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực… đã trở thành vấn đề nhức nhối trong đời sống xã hội. Tôi càng thêm cảm phục huynh trưởng của tôi. Nếu không có niềm tin tuyệt đối về bản chất tốt đẹp của chế độ Cộng sản chủ nghĩa thì nhà Tình báo Đặng Trần Đức không thể có bản lĩnh để vượt qua mọi gian nguy thử thách, góp phần vào chiến thắng lịch sử huy hoàng của toàn dân tộc.

Hà Nội, tháng 4/2010

K.M.D.

cand.com.vn

Vị Tư lệnh và con đường dài nhất thế giới

Tháng Năm 6, 2011 Bình luận đã bị tắt

Thiếu tướng Hoàng Kiền.

Dài nhất thế giới? Thú thực có lẽ không ít người từng ngan ngán lẫn sợ cùng dị ứng với những cái to nhất, lớn nhất, dài nhất, những ghinet Việt này khác mà người ta đã tri hô lên một cách vội vã…

Nhưng với trường hợp này thì đành “bó tay chấm com” bởi đành phải gọi sự vật bằng cái tên của nó! Quả là dài nhất thế giới bởi con đường bê tông với chiều rộng 3,5m, nền đường 5,5m vắt qua 25 tỉnh, thành từ Quảng Ninh đến Kiên Giang với chiều dài 10.000km! Con đường ấy theo tiến độ, đến năm 2015 sẽ hoàn thành.

Đương cai quản con đường bê tông dài nhất thế giới ấy là một vị tướng. Thiếu tướng Hoàng Kiền. Tướng Hoàng Kiền, ông là ai?

Người quen, đường lạ?

Đó là con đường tuần tra biên giới (ĐTTBG) đất liền viền quanh dải đất thiêng hình S của Tổ quốc từ Móng Cái đến Hà Tiên. Con đường đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo an ninh quốc phòng, phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, một tuyến đường lịch sử đang dần được hình thành. 5 năm qua, hơn 1.500km đường như thế đã được hoàn thành.

Kế hoạch từ năm 2011 đến 2015, con đường lại tiếp tục vươn tiếp. Đang phải dằng dặc 8.500km nữa. Những khúc đường kết tinh bao gian nan gắng gỏi của những người lính!

Những người lính? Tại sao không? Chủ trương lớn mang tầm chiến lược của đất nước, bảo vệ giữ gìn cương vực chủ quyền quốc gia, công việc khó khăn gian nan ấy, ngày 14/3/2007 đã được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định trao cho Bộ Quốc phòng đảm nhiệm. Tôi cứ lẩn thẩn rằng, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Xây dựng và không ít bộ ngành khác thiếu chi những đơn vị làm đường thiện chiến nhưng Chính phủ đã chọn Bộ Quốc phòng hẳn là có lý do? Bộ trưởng Phùng Quang Thanh, có lẽ làm cái việc chọn mặt gửi… đường đã trực tiếp giao cho Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam mà cụ thể là tướng Hoàng Kiền làm chủ đầu tư Ban quản lý Dự án Đường tuần tra biên giới gọi tắt là Ban Quản lý dự án (QLDA) 47.

Những người lính làm đường! Có lẽ thiên hạ đã quá quen với việc ấy… Nhưng ĐTTBG do Thiếu tướng Hoàng Kiền (một nhân vật hơi bị lạ, có vẻ như đang còn chìm khuất trong mặt bằng tướng lĩnh, chuyện đó xin được nói sau) đảm trách thì lại gây nhiều điều bất ngờ?

Bởi đường chi mà lạ? Địa hình phức tạp, khó khăn thì phải tránh ra chứ? Nhưng những người lính làm đường lại cứ nhắm tuyến vào những địa hình gian nan bất lợi nhất về mặt kinh tế lẫn kỹ thuật thì cũng hơi bị lạ? Nhưng đấy cũng là điểm khác biệt lớn nhất là đặc thù và cũng là khó khăn nhất của việc thi công ĐTTBG. Yêu cầu số 1 khi xây dựng là phải bám sát biên giới quốc gia, trung bình cách đường biên 100m. Trường hợp đặc đặc biệt được cách tối đa 1.000m, nhiều đoạn chạy chính trên đường biên giới. ĐTTBG thường phải bám theo đỉnh núi, hoặc xuống khe suối rất sâu. Nếu ở chỗ khác thì người ta có thể tránh những đèo cao vực sâu, làm đường ở chân núi. Nhưng ĐTTBG thì không thể tránh được, đơn giản tránh thì sẽ cách xa đường biên và không còn đáp ứng được tiêu chí đặc thù của đường biên giới.

Theo quy hoạch, chúng ta phải làm mới khoảng 10.000 km. Cứ tưởng tượng, nếu chúng ta đi đường ôtô từ Hà Nội vào TP HCM là khoảng 1.600km, nhưng độ dài của ĐTTBG gấp 7 lần và tất nhiên, khi thi công sẽ khó khăn hơn nhiều so với việc làm tuyến đường số 1. Làm xong thì nó sẽ là con đường bê tông xi măng dài nhất Việt Nam và có lẽ cũng là một trong những con đường bê tông xi măng dài nhất thế giới!

Đó là thông tin ghi nhận qua một lần ngồi vội nhân buổi chia vui với Ban QLDA 47 đã hoàn thành bước đầu 1.500km ĐTTBG. Không thể không biên ra đây những thông tin mang tầm cấp chiến lược.

ĐTTBG được xây dựng đã tạo điều kiện thuận lợi cho Bộ đội Biên phòng tuần tra, bảo vệ chủ quyền, an ninh trật tự an toàn xã hội khu vực biên giới, chống vượt biên, chống xâm nhập trái phép, chống buôn lậu vận chuyển ma túy qua đường biên giới. Tạo điều kiện thuận lợi cho Bộ đội Biên phòng di chuyển, thành lập mới các đồn, trạm biên phòng, góp phần củng cố các khu vực ở tuyến phòng thủ biên giới. Tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phân giới cắm mốc biên giới, ổn định tình hình an ninh ở nhiều khu vực nhạy cảm.

Ấn tượng không chỉ có vậy… Một lần (cũng là gặp vội) với tướng Hoàng Kiền, chúng tôi đã nghe ông bật mí rằng, với hơn 1.500km ĐTTBG đã hoàn thành, theo đơn giá năm 2009, đơn giá bình quân là 7 tỉ đồng Việt Nam/1km so với định mức 8,18 tỉ VND/1km so với suất đầu tư của Bộ Xây dựng!

Nghe mà hơi gai gai?! Bởi những người anh em làm đường của ngành xây dựng khéo mà… tự ái khi nghe công bố đơn giá ấy? Lại nữa, từng nghe thiên hạ đang rầm lên những là thất thoát này khác trong xây dựng cơ bản, nhất là trong lĩnh vực làm đường, Ban QLDA 47 của Bộ tổng Tham mưu có phép mầu, bí quyết gì chăng?

Góp phần giải đáp những băn khoăn hoặc lẫn tò mò ấy, rất nhanh, những người lính ở Bộ Tổng tham mưu đã giúp chúng tôi có một chuyến cơ động mới đây. Chúng tôi đã không chọn Dự án ĐTTBG khu vực Tây Bắc giai đoạn 2006-2010 đã thông tuyến (226/228km đã xong nền đường) và đang đẩy nhanh tiến độ đổ bêtông mặt đường. Chúng tôi ngược về miền Tây Thanh Hóa, nơi đó đơn vị 319 đang mở những mét đường đầu tiên của tuyến ĐTTBG Việt – Lào.

Mùa xuân biên giới thơ mộng ở đâu nhưng tại nơi đóng quân cùng địa bàn thi công của những người lính mở ĐTTBG là mây mù giăng đặc. Không khí ẩm có cảm giác vo được từng vốc nước. Mọi thứ ẩm xì, nhão nhoét. Và vắt lăm le chực búng vào cổ cùng chỗ kín…

Gặp chủ đầu tư công trình. Đã đành. Ngồi chuyện với các kỹ sư, những người lính thợ và công nhân, tất nhiên dễ thôi. Nhưng phải gặp cả bên cung cấp vật liệu thi công và bên tư vấn giám sát để họ cởi mở, bộc bạch ra điều này nhẽ khác thì chả dễ chút nào! Đành phải có cách này cách khác…

Ghi nhận đầu tiên. Những đơn vị tham gia thi công ĐTTBG là những lực lượng thi công chuyên nghiệp. Chuyên nghiệp từ khâu thiết kế, cấp phối bê tông, kiểm tra vật liệu đầu vào, giám sát thi công, kiểm tra bê tông sau thi công, đảm bảo chất lượng nền đường mặt đường bê tông xi măng v.v… Phải chăng đây là bí quyết (bí quyết là cách gọi cho sang thôi! Bởi cứ răm rắp, cứ nghiệt ngã theo quy trình, quy định thi công cộng với thứ quân lệnh như sơn mà không ít đơn vị mần đường hoặc vô tình hoặc cố ý sao nhãng để kiếm chác?) để làm nên kỳ tích (mà có thể gọi là huyền thoại?) để Ban QLDA 47 đạt được đơn giá 7 tỉ/km ĐTTBG? Chợt nghĩ đến câu thành ngữ một thời nước sông công lính nhất là lính làm đường.

Một lần phóng viên ảnh Xuân Gụ của Báo Quân đội nhân dân sau chuyến đi với những đơn vị thi công ĐTTBG về thảy cho bộ phận Thư ký tòa soạn một xấp ảnh. Bên Thư ký tòa soạn cứ nằng nặc phải tìm bằng được một tấm ảnh có cảnh những người lính giăng hàng đang làm đường cho có khí thế (!?) Xuân Gụ cáu, các bố xưa rồi, bây giờ quân đội làm đường không phải như trước nữa!

Không phải như trước, tất nhiên không phải 100% cơ giới là máy móc, nhưng hầu như tất cả những đơn vị thi công đều mua sắm hoặc thuê những thiết bị thi công đường hiện đại tiên tiến. Tất nhiên tiến độ chất lượng nhanh hơn, tốt hơn. Và tất nhiên khâu đưa các loại thiết bị phương tiện thi công lên những địa hình phức tạp, công sức người lính cũng gian nan hơn nhiều lắm!

Xuống bể lên rừng vì chủ quyền an ninh quốc gia

Không biết có kilômét ĐTTBG nào tướng Hoàng Kiền gặp lại những khúc cua cheo leo thuở là anh lính Trường Sơn mở đường vào các chiến trường? Bây giờ trên chiếc Uoát lắc lư oặt người qua những khúc ngoặt chóng mặt của tuyến ĐTTBG mới mở, tôi mơ màng nghĩ tới thời điểm năm 2015, 10 ngàn cây số ĐTTBG sẽ vo vo bánh xe du lịch của các con dân nước Việt lần lượt thẩm định lại cảm giác chủ quyền cương vực lãnh thổ quốc gia qua 25 tỉnh, thành!

Động thái nhồi lắc ấy chợt cho cảm giác những lần ra Bạch Long Vĩ và Trường Sa.

Rân rân cảm giác phục lẫn ngại. Bởi leo Trường Sơn hay ra Bạch Long Vĩ, Trường Sa thì cũng chỉ dẫm lại, dẫm lên theo những vệt chân của người lính Hoàng Kiền.

Yên hàn. Người lính công binh mở đường Trường Sơn Hoàng Kiền không trở về quê hương Giao Thủy. Học viện Kỹ thuật quân sự đã cung cấp cho Quân chủng Hải quân một sĩ quan công binh có hạng. Từng nằm nghe sóng ở Bạch Long Vĩ và không dám thuật ra đây những công trình quân sự lẫn dân sự được gọi mật danh là công trình xa trên hòn đảo tiền tiêu của Tổ quốc. Những công trình ấy không ghi trên biển đồng bia đá tên người chỉ huy lẫn phiên hiệu những đơn vị thi công. Nhưng chắc chắn trong những hồ sơ lưu trữ có những dòng đại loại, sĩ quan cấp tá Hoàng Kiền từng ròng rã 3 năm làm nhiệm vụ tại hòn đảo này…

Sâu đậm trong tâm trí vị tướng từng là Tư lệnh Quân chủng Công binh là những năm xa khi còn đang phụ trách Đoàn 83 Hải quân. Hơn một tháng trời ròng rã được tháp tùng chuyến công tác đặc biệt của Đô đốc Giáp Văn Cương, Tư lệnh Hải quân vào những năm tháng cam go nhạy cảm của chủ quyền cương vực quốc gia về lãnh hải… Tầm nhìn nhạy cảm chiến lược nhưng thiết thực hiệu quả của vị đô đốc ấy đã tìm thấy hiệu ứng tức thì ở viên sĩ quan phụ tá! Làm được không cậu? Báo cáo thủ trưởng, khó nhưng phải cố…

Việc phải làm phải cố ấy là xây dựng gấp những công trình phòng thủ và sinh hoạt trên những hòn đảo nổi, đảo chìm ở quần đảo Trường Sa. Đưa những loại vật liệu thông dụng như sắt thép, xi măng, bê tông trên lộ hải dằng dặc mấy trăm hải lý bây giờ còn đương là gian nan nữa là những năm cuối 80 của thế kỷ trước! Đơn giản cái máy cắt sắt khi ấy không kiếm đâu ra, chả lẽ giữa muôn trùng sóng gió như thế giăng trần sức lính ra để chặt để đục và làm mồi cho nước mặn? Hoàng Kiền phải xoay xỏa nhờ ông bạn làm ở tàu viễn dương sang Nhật mua mấy chục cái cả máy đầm lẫn máy trộn bê tông.

Đo đạc tính toán kỹ càng, những thiết bị chuyên dụng ấy từ trong đất liền đã làm vơi biết bao khó nhọc của người lính công binh hải quân và làm bền chắc thêm, chất lượng thêm những công trình phòng thủ tại nơi tiền tiêu của Tổ quốc. Từng được ngắm ngó rờ rẫm bởi tò mò và thán phục những khối bê tông cốt thép chắc khừ lẫn khéo léo che chở vũ khí, khí tài và nơi ăn ngủ, nơi chứa nước ngọt của những người lính đảo tại đảo chìm X., đảo chìm B., đảo H., đảo M. v.v… bây giờ ngồi hầu chuyện vị tư lệnh đang lo xây hơn 10 ngàn cây số đường chủ quyền cương vực cứ rân rân nhiều thêm cảm giác tự hào thán phục.

Ròng rã 10 năm, từ năm 1989 đến 1998, Đoàn trưởng Công binh 83 Hải quân Hoàng Kiền, tính sao hết những lần ra Trường Sa, cùng lính phơi mặt với sóng gió với biển mặn trên hàng chục đảo lớn nhỏ chủ quyền. Tổ quốc ơi, tiếng chúng tôi kêu lên mà mắt chúng tôi nhìn xuống. Câu thơ Trần Đăng Khoa có vẻ đúng hơn cả với những người lính công binh Hải quân từng xây dựng công trình trên những đảo chìm Trường Sa. Phải nhìn xuống để mà lo việc, làm việc cho kỹ, cho chất lượng! Ròng rã 10 năm, những người lính có thể thay, nhưng khung cán bộ thì phải giữ phải trụ lại với công trình trên đảo đá.

Có hai thứ ở Trường Sa mà giờ nghĩ lại vẫn sợ lẫn ngạc nhiên nên phải hỏi thêm tướng Hoàng Kiền. Ấy là công trình trên một số đảo chìm. Đầu tiên là khung gỗ là nơi tập kết vật liệu. Kể ra thì vô số sáng kiến của lính ta để giữa ngầu ngầu bọt sóng ấy (thơ Trần Đăng Khoa) dần dà sinh thành giọt máu thiêng – mọc lên một công trình chắc khừ như một thứ cột mốc chủ quyền khổng lồ! Thứ nữa là con kênh để cho tàu vào trên đảo Đ.

Bạn thử tưởng tượng dưới mức nước chỉ hơn 1m lại có một vùng đá nhiều ha. Tạo một con kênh để tàu vào ra, nói thì dễ nhưng gian nan thay. Phương tiện thi công có thể bây chừ có nhưng thử lùi lại những năm cuối 80 ấy? Vậy mà chỉ bằng thuốc nổ và cung cách làm việc sáng tạo khoa học, đơn vị của Hoàng Kiền suốt 4 tháng trời đã bền bỉ khéo léo đào ngầm tạo ra một con kênh rộng 50m, sâu 5m, dài 750m. Con kênh ấy không những bây giờ vẫn hữu dụng mà vẫn tiếp tục giá trị trong rất nhiều năm nữa… Đô đốc Giáp Văn Cương khi trực tiếp chứng kiến công trình hoàn thành, nhìn tàu ta vào ra đảo đã ôm lấy Hoàng Kiền và những người lính công binh của mình mà khóc!

Lặng lẽ những lên rừng rồi lặng lẽ mười mấy năm xuống bể và bây giờ lại… lên rừng. Tướng Hoàng Kiền là thế! Có lẽ khó mà tính đếm những gian nan của người vợ là cô giáo cấp 2 Giao Thủy – Nam Định từng biền biệt xa chồng. Cũng như khó tính đếm những gian nan, những chiến công mà người chiến binh Hoàng Kiền vun đắp cho cương vực chủ quyền quốc gia trong những ngày xanh hòa bình nhưng lặng lẽ còn ít người biết đến ấy…

Xuân Ba

cand.com.vn

Trùm khủng bố “tàn độc hơn cả Bin Laden”

Tháng Năm 6, 2011 Bình luận đã bị tắt

Anwar al-Awlaki, tên khủng bố số 1 thế giới đang bị truy sát.

Ngày 9/2/2011, Trung tâm Chống khủng bố quốc gia Mỹ đã khẳng định: Mối đe dọa lớn nhất tới an ninh nước Mỹ hiện tại không phải là Osama bin Laden, mà là trùm khủng bố Anwar al-Awlaki, 40 tuổi, người mang hai quốc tịch Yemen và Mỹ.

Sau những vụ khủng bố liên tiếp từ Yemen, Anwar al-Awlaki đã trở thành cái tên khét tiếng trong danh sách truy nã gắt gao nhất của Hoa Kỳ. Được biết, nhân vật đứng đầu Chi nhánh mạng lưới khủng bố Al-Qaeda tại bán đảo Arập (AQAP) đóng tại Yemen này chính là kẻ truyền phát tư tưởng cực đoan thông qua mạng Internet toàn cầu.

Al-Awlaki được biết với những biệt danh “Osama bin Laden mạng”, “Giáo chủ Hồi giáo E-mail”,… và là kẻ đã chiêu mộ hàng trăm phần tử “thánh chiến” đẩy nước Mỹ đối mặt với nguy cơ khủng bố lớn nhất kể từ sau sự kiện 11/9/2001.

Xuất thân danh giá

Sinh ngày 22/4/1971 trong một gia đình trí thức người Yemen sống tại Las Cruces, bang New Mexico, Mỹ, ngay từ nhỏ Anwar al-Awlaki đã được sống khá sung túc và được tiếp nhận nền giáo dục mang đậm chất Mỹ. Khi sinh Anwar al-Awlaki cũng là lúc cha anh ta là Nasser Al-Awlaki lấy được bằng thạc sĩ Kinh tế Nông nghiệp tại Đại học New Mexico. Năm 1977, Nasser tiếp tục giành học vị tiến sĩ tại Đại học Nebraska và sau đó làm việc tại Đại học Minnesota. Một năm sau, cả gia đình Nasser quyết định trở về Yemen. Khi đó Anwar al-Awlaki mới 7 tuổi.

Tại quê hương, con đường sự nghiệp của Nasser thăng tiến không ngừng và chẳng bao lâu sau Nasser được cử giữ chức Bộ trưởng Nông nghiệp Yemen. Song song với cương vị Bộ trưởng, Nasser còn được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng Trường đại học Sana’a. Sau này, Nasser trở thành thành viên chủ chốt trong đảng của Tổng thống Yemen Ali Abdullah Saleh và nhiều nguồn tin cho rằng, con đường công danh của ông này có phần ảnh hưởng quan trọng từ mối quan hệ họ hàng với Thủ tướng Yemen Mujawar.

Bởi vậy những năm tháng học trung học tại Yemen quê hương của Al-Awlaki khá thuận lợi và anh ta luôn được hưởng mọi điều kiện tốt nhất. Bên cạnh kiến thức mà nhà trường trao cho, Al-Awlaki còn được tiếp nhận sự giáo dục tôn giáo một cách đặc biệt. Bước sang tuổi 20, Al-Awlaki nhận được học bổng của Chính phủ Yemen trở lại Mỹ theo học khoa Công trình xây dựng tại Đại học bang Colorado.

Theo luật, Al-Awlaki lúc này có quốc tịch Mỹ, tuy nhiên anh ta vẫn sử dụng visa học sinh ngoại quốc và hộ chiếu Yemen để nhập cảnh mỗi lần vào nước này. Cơ quan An ninh Hoa Kỳ sau này đã phân tích, Al-Awlaki làm như vậy là để chứng minh rằng, anh ta tự hào về nguồn gốc Yemen của mình.

Suốt thời gian đại học, nhờ vào khả năng hùng biện và tài tổ chức, Al-Awlaki đã được cử làm Chủ tịch “Hiệp hội sinh viên Hồi giáo”. Mùa hè năm 1993, lợi dụng danh nghĩa này, Al-Awlaki đã đến Afghanistan hội ngộ với những “chiến binh thánh chiến” và sau khi trở về, đó là một Al-Awlaki hoàn toàn thay đổi. Luôn đội khăn trùm kiểu Afghanistan, luôn cổ xúy “thánh chiến”, chủ trương “tiêu diệt những kẻ ngoại đạo” và “giải phóng Afghanistan”, Al-Awlaki thực sự đã trở thành một “biểu tượng” hung dữ nhất của những tư tưởng cực đoan.

Năm 1994, sau khi cưới vợ, Al-Awlaki chuyển sang làm thầy tế Hiệp hội Hồi giáo tại thành phố Denver, bang Colorado. Hai năm sau, anh ta lại chủ trì một nhà thờ Hồi giáo tại San Diego, California và học lấy bằng thạc sĩ giáo dục. Năm 2001, Al-Awlaki học tiến sĩ chuyên ngành phát triển nguồn nhân lực tại Đại học George Washington nhưng mới được một năm, người ta lại thấy Al-Awlaki trở về Yemen làm giáo viên một trường đại học nổi tiếng ở quê nhà. Mọi sự dường như không có gì quá đặc biệt cho tới tháng 8/2006, Al-Awlaki bị chính quyền Yemen bắt giam 18 tháng vì ghi ngờ là kẻ tiến hành các hoạt động khủng bố.

“Osama Bin Laden mạng”

Điều khiến Cơ quan Tình báo Mỹ cay đắng nhất là việc họ không hề hay biết gì về Al-Awlaki mặc dù anh ta đã từng sinh sống tại Mỹ 21 năm. Sau sự kiện 11/9/2001, người ta còn thấy Awlaki xuất hiện trên mạng truyền hình Mỹ lên tiếng chỉ trích các phần tử cướp máy bay để thực hiện vụ khủng bố kinh hoàng này. Thậm chí tờ Thời báo New York lúc đó còn ngợi ca Anwar al-Awlaki là “lãnh tụ Hồi giáo thế hệ mới có thể dung hòa phương Đông và phương Tây”. Nhưng chẳng bao lâu sau, Cơ quan Tình báo Mỹ phát hiện Al-Awlaki có mối quan hệ rất gần gũi với các phần tử không tặc và anh ta đã bị FBI thẩm vấn ít nhất 4 lần ngay sau đó.

Theo các cựu quan chức tình báo thuộc Bộ An ninh nội địa Mỹ thì Al-Awlaki chính là “lãnh tụ tinh thần” của bọn khủng bố này, đặc biệt là có 3 tên: Awaf Al-Hazmi, Khalid Al-Mihdhar và Hani Hanjour từng tham gia hội truyền giáo của Al-Awlaki đều có mặt trên chuyến bay 77 đâm vào Lầu Năm Góc. Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) đã tiến hành điều tra rất gắt gao, tuy nhiên do không có đủ chứng cứ nên đã không thể kết tội Al-Awlaki được.

Cũng giống như Bin Laden, Al-Awlaki có giọng nói chậm rãi, khá truyền cảm. Là người có trình độ, lại thông thạo tiếng Anh và tiếng Arập nên khi tuyên truyền giáo lý Hồi giáo, Al-Awlaki rất có khả năng thuyết phục. Hơn nữa, là người hiểu rõ phương Tây và Mỹ nên Al-Awlaki có thể phân tích chuẩn xác khi phê phán nhược điểm và những bất cập của họ, đồng thời còn dẫn dụ rất khéo léo cho luận điểm của mình. Chính vì vậy, Al-Awlaki đã thu hút được đông đảo những phần tử khủng bố cấp tiến. Anwar al-Awlaki lợi dụng triệt để mạng Internet để tuyên truyền chủ nghĩa khủng bố và được mệnh danh là “Osama bin Laden mạng”.

Trong số những nghi phạm khủng bố mà nước Mỹ tóm được những năm gần đây có không ít đối tượng là người da trắng và lúc này người Mỹ mới ngộ ra rằng, quá trình “nội địa hóa” chủ nghĩa khủng bố có đóng góp không hề nhỏ của Al-Awlaki.

Khi bắt đầu chú ý đến Al-Awlaki, Cơ quan Tình báo Mỹ còn chủ quan đến mức cho rằng Al-Awlaki chỉ là đối tượng thuộc “phái lý thuyết” chứ không biết hành động. Mãi tới tháng 11/2009, khi xảy ra sự kiện xả súng bừa bãi ở Fort Hood (Texas) làm chết 13 người, Cơ quan Tình báo Mỹ mới giật mình. Thủ phạm vụ xả súng là Thiếu tá quân y Nidal Malik Hasan từng 18 lần liên lạc qua thư điện tử với Al-Awlaki. Sau sự kiện, Al-Awlaki còn công khai tuyên bố: “Nidal Malik Hasan là một anh hùng, chiến đấu với quân đội Mỹ là trách nhiệm của một tín đồ Hồi giáo!”.

Anwar al-Awlaki cùng các chiến hữu tại Yemen.

Rất nhiều cuộc tấn công khủng bố khác mà người ta cho rằng nghi can có liên quan đến Al-Awlaki. Vụ tấn công khủng bố máy bay dân sự Mỹ ngày Giáng sinh năm 2009, vụ tấn công khủng bố xe hơi ngày 1/5/2010 tại Quảng trường Thời Đại, New York, hay vụ khủng bố ở Mumbai, Ấn Độ năm 2008… tất cả đều có mối liên quan đến hoạt động “giáo huấn” của Al-Awlaki. Ngay như gần đây nhất, tổ chức khủng bố Al-Qaeda trên bán đảo Arập (AQAP) hôm 5/11/2010 đã phải lên tiếng nhận trách nhiệm về âm mưu đánh bom 2 máy bay từ Yemen sang Mỹ.

Sau khi nhận được thông tin tình báo từ Arập Xêút, nhà chức trách Anh và UAE nơi 2 máy bay trên quá cảnh đã kịp thời phát hiện 2 kiện hàng chứa chất nổ PETN. Những kiện hàng chứa bom này đã được vô hiệu hóa chỉ 17 phút trước thời điểm phát nổ dự kiến. Chính Anwar Al-Awlaki và chuyên gia chất nổ của AQAP là Ibrahim Hassan Al-Asiri đã bị cáo buộc đứng sau kế hoạch trên.

Cơ quan điều tra Mỹ thống kê rằng, các nghi phạm gây ra hơn 10 vụ khủng bố tại Mỹ, Anh và Canada những năm gần đây đều là những “tín đồ” của Al-Awlaki thông qua mạng Internet, băng ghi âm và đĩa CD. Sức ảnh hưởng của Al-Awlaki đã khiến các nhân viên tình báo Mỹ đau đầu và bế tắc. Thậm chí họ còn nhận định, Al-Awlaki có thể được mạng lưới Al-Qaeda cài vào nước Mỹ trước năm 2001. Mọi hình ảnh ôn hòa và tư tưởng chống bạo lực của Al-Awlaki trước đây chỉ là giả tạo mà thôi.

Người ta thấy trong năm ngoái, Anwar al-Awlaki đã ngang nhiên trình làng một trang web tiếng Anh để tuyển mộ tân binh ủng hộ thánh chiến. Tiếp đó trong tháng 7, tạp chí tiếng Anh đầu tiên có tên gọi Inspire (Cảm hứng) được tổ chức “Al-Qaeda in the Arabian Peninsula” – hình thành dưới sự kết hợp của các hạt nhân khủng bố của Al-Qaeda tại Yemen và Arập Xêút – ra đời.

Một trang bìa tạp chí Inspire.

Theo nhận định, Anwar Al-Awlaki chính là linh hồn và “tổng biên tập” của tạp chí chuyên dành cho những tên khủng bố này. Sự ra đời của Inspire thực chất là một công cụ mới để khích lệ tinh thần của những tên khủng bố trong mạng lưới của Al-Qaeda trên khắp toàn cầu. Bề ngoài, Inspire chẳng khác gì những tạp chí truyền thống của phương Tây: trang bìa bắt mắt với những cái tít giật gân: “Có thể chờ đợi điều gì từ cuộc thánh chiến”, “Hãy chế tạo bom ngay tại bếp của mẹ”, v.v…

Tuy nhiên, trong tất cả hơn 60 trang của tạp chí này, các từ “Afghanistan”, “Iraq”, “Israel” và “Palestine” được nhắc tới quá nhiều. Bên cạnh đó, tạp chí cũng dành nhiều sự chú ý vào tình hình tại bán đảo Arập, trước tiên là tại Arập Xêút và Yemen, những quốc gia có chính phủ được xem là “bung xung của phương Tây” và là “kẻ thù của những người Hồi giáo chính thống”.

Tìm và diệt

Ngay từ đầu năm 2010, Cơ quan Tình báo Mỹ đã cho biết Anwar al-Awlaki bị liệt vào danh sách cần phải “tìm và diệt”. Tờ Thời báo New York ngày 7/4 còn tiết lộ, Tổng thống Mỹ Obama đã đích thân hạ lệnh “tiêu diệt” đối với Anwar al-Awlaki.

Tuy nhiên, tiêu diệt Al-Awlaki là một nhiệm vụ quá khó khăn. Các quan chức an ninh Yemen cho rằng, Al-Awlaki đang trú ẩn tại khu vực vùng núi xa xôi hẻo lánh, địa thế hiểm trở thuộc tỉnh Shabwah, phía nam Yemen. Mỹ lập tức điều ngay lực lượng đặc nhiệm thường xuyên sục sạo khu vực này. Máy bay không người lái của CIA cũng liên tục tiến hành không kích khu vực được cho là Al-Awlaki có thể lẩn trốn. Tuy nhiên, tất cả mọi nỗ lực đều không mang lại kết quả.

Nhiều nguồn tin cho hay, các phần tử khủng bố đứng đầu là Al-Awlaki đã có trong tay khoảng 400 phần tử cực đoan với sự trợ giúp của các bộ tộc địa phương sẵn sàng tử vì đạo. Ngày 9/4/2010, bộ tộc Avarick, một trong những bộ tộc lớn nhất Yemen, đã tuyên bố phản đối “mọi hành động hợp tác với Mỹ để tiêu diệt Anwar al-Awlaki”.

Theo các nhà phân tích thì việc truy bắt Al-Awlaki đã khó khăn nhưng điều khó khăn hơn cả là phạm vi hoạt động của các phần tử khủng bố đã có sự dịch chuyển và cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu đang đứng trước sự chuyển đổi về chất. Anwar al-Awlaki và các phần tử khủng bố của Al-Qaeda tại Pakistan, Somali đã chiêu mộ được nhiều phần tử vũ trang với quy mô lớn hơn cả thời kỳ Osama bin Laden. Việc tái phát triển của tổ chức Al-Qaeda khiến cho cuộc chiến chống khủng bố của phương Tây sẽ phải tiếp tục kéo dài nhiều năm nữa.

Sau sự kiện 11/9/2001, Mỹ phải hứng chịu cuộc khủng hoảng tài chính nặng nề nên nguy cơ một vụ khủng bố lớn nữa sẽ là điều nước Mỹ thực sự lo ngại. Sự xuất hiện của Al-Awlaki trong thời điểm khi mà sức mạnh lan tỏa khủng khiếp của Internet khiến người Mỹ hoang mang, sợ hãi và hiển nhiên cái tên Al-Awlaki đã bị liệt vào “danh sách phần tử khủng bố nguy hiểm hàng đầu”.

Gần đây, theo những tiết lộ từ giới chức Mỹ thì chính quyền của Tổng thống Obama đã thiết lập trung tâm quân sự mới nhằm mở rộng cuộc chiến bí mật chống khủng bố. Trung tâm này có nhiệm vụ triển khai các hoạt động tại các khu vực điểm nóng như Pakistan, Yemen và Somali. Có thể thấy rõ ràng sự điều chỉnh chiến lược này của Mỹ có quan hệ trực tiếp với sự xuất hiện “phần tử khủng bố đe dọa hàng đầu” nước Mỹ, Anwar al-Awlaki.

Cùng với những nỗ lực của Mỹ và phương Tây, ngày 6/11/2010, các thẩm phán Tòa án Yemen đã yêu cầu cảnh sát bằng mọi cách truy sát bằng được Al-Awlaki. Ngày 17/1/2011, Tòa án An ninh Yemen đã xử vắng mặt Al-Awlaki 10 năm tù giam vì tội danh “kích động công chúng tiêu diệt người nước ngoài”. Và dĩ nhiên đến giờ phút này, giống như Osama bin Laden, Anwar al-Awlaki vẫn hoàn toàn “ngoài vòng kiểm soát”

Ngọc Mai

cand.com.vn

Người mã hoá bức điện mật của Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Tháng Năm 6, 2011 Bình luận đã bị tắt

Đồng chí Nguyễn Đức Mãi.

Ông đã dành trọn tuổi thanh xuân của mình trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại, ông cũng chứng kiến bao đồng chí đồng đội đã ngã xuống trước ngày toàn thắng. Giữa những năm tháng máu lửa bi hùng đó, ông đã dịch, mã hóa và truyền đi hàng trăm ngàn trong tổng số gần 51 triệu bức điện của toàn ngành cơ yếu quân đội.

Ông cũng là người vinh dự được cấp trên lựa chọn để mã hóa và truyền đi bức điện của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa…”. Đó là Đại tá Nguyễn Đức Mãi, nguyên cán bộ cơ yếu Đoàn 559…

Không khó để tìm ra nhà Đại tá Nguyễn Đức Mãi ở thành phố Vinh, Nghệ An. Căn nhà nhỏ, giản dị nằm sâu trong ngõ số 10, đường Nguyễn Văn Cừ, nhưng dường như hỏi ai cũng đều biết ông. Thoạt nhìn không ai nghĩ người cựu binh này đã bước sang tuổi 85. Mấy năm gần đây, tuy bị căn bệnh tim hành hạ, nhưng do luyện tập dưỡng sinh thường xuyên, trông da dẻ ông vẫn hồng hào, giọng nói hào sảng. Đôi mắt ông rực sáng lên khi hồi ức lại những năm tháng thời chiến tranh máu lửa…

Tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền trong Cách mạng tháng Tám 1945, sau đó công tác tại Huyện ủy Kỳ Anh (Hà Tĩnh), tháng 7/1950, chàng thanh niên trẻ Nguyễn Đức Mãi vinh dự được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam, sau đó ít ngày, ông xung phong nhập ngũ. Sau huấn luyện, ông được đơn vị cử đi học một lớp cán bộ công tác chính trị, đến năm 1952, sau nhiều lần thử thách, ông tiếp tục được đi học lớp cơ yếu. Từ đó, cuộc đời binh nghiệp của ông gắn liền với tín hiệu, ký hiệu, con số của ngành mật mã.

Gần chục năm sau đó, ông lăn lộn trên khắp các chiến trường miền Trung; đóng quân trên đảo từ Mũi Gòn, Hòn Én (Hà Tĩnh) đến Hòn La (Quảng Bình), đến miền Tây Vĩnh Linh trong biên chế quân số của Tiểu đoàn 25 thuộc Tỉnh đội Quảng Bình. Theo yêu cầu ngày càng cấp bách của chiến trường miền Nam, Đoàn 559 ra đời và ngày càng lớn mạnh; từ quy mô cấp sư đoàn đến binh đoàn bao gồm nhiều binh chủng hợp thành dưới sự chỉ huy của Tướng Đồng Sĩ Nguyên. Lực lượng cơ yếu của Đoàn 559 giữ vai trò “kết nối” sự chỉ đạo của Bộ Tổng tham mưu đến khắp các chiến trường. Ông là thế hệ lính cơ yếu đầu tiên của đơn vị chiến lược này.

Đồng chí Nguyễn Đức Mãi (người ngồi ngoài cùng bên phải) trong những năm ở Trường Sơn.

Lúc đầu đơn vị đóng quân tại Khe Hó (Vĩnh Linh), trụ sở đầu tiên của Đoàn 559, sau đó đơn vị rút về Làng Ho (Quảng Bình). Giai đoạn này cũng chính là thời điểm khó khăn nhất của đơn vị, vừa chiến đấu vừa xây dựng lực lượng. Trên đường Trường Sơn, lực lượng cơ yếu được thành lập 9 trạm, bắt đầu từ Làng Ho qua vùng Hạ Lào, Ka Ra Chê (Campuchia) rồi vòng về Lộc Ninh. Bấy giờ, điều kiện vô cùng khó khăn, ăn trong hang đá, ngủ dưới tán cây rừng, đối mặt với cái đói triền miên, rồi rắn độc, sốt rét, bom đạn của kẻ thù. Trong khi đó, địch lại liên tục tung các toán gián điệp, biệt kích và tổ chức các đợt hành quân quy mô lớn để càn quét, tìm diệt lực lượng ta, nên cứ hai ba hôm cả đơn vị lại phải di chuyển một lần để đảm bảo tuyệt đối bí mật.

Giai đoạn khó khăn nhất của ông và đồng đội phải trải qua, chính là những thời điểm khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh. Lực lượng cơ yếu Đoàn 559 vừa phải chiến đấu như những đơn vị chủ lực thực sự trong Chiến dịch đường 9 Nam Lào, đợt Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968, đợt phản công mùa hè năm 1972, đặc biệt là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Trong những thời khắc bi hùng nhất của cuộc chiến tranh, chính ông đã chứng kiến và mai táng hàng chục đồng đội mình, trong tổng số gần 600 cán bộ cơ yếu của Đoàn 559 ngã xuống trong những trận đánh, trận phục kích, trận B52 rải thảm của địch. Công việc cơ yếu khi đó chủ yếu được tiến hành vào ban đêm. Ban đầu, trang thiết bị thiếu thốn, chủ yếu làm thủ công nên càng khó khăn bội phần. Tuy nhiên, các ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đảm bảo liên lạc thông suốt, an toàn và bí mật tuyệt đối trong suốt những năm ác liệt của cuộc chiến tranh…

Lật giở từng trang kỷ yếu về các thế hệ lính cơ yếu, trong đó có bức điện mật do chính tay ông mã hóa và truyền đi năm xưa của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, khuôn mặt ông ngập tràn xúc động. Ông vẫn coi đó là vinh dự nhất của cuộc đời mình. Ngày 7/4/1975, ông nhận được chỉ thị từ Ban Cơ yếu Bộ Tổng tham mưu, giao một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, đó là mã hóa bức điện mật của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, truyền tới tất cả các đơn vị trên đường Trường Sơn, với nội dung: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút xốc tới mặt trận. Giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng. Truyền đạt tức khắc tới đảng viên và chiến sĩ”.

Ông kể: “Nhận được nội dung bức điện mật quan trọng này, lúc đó tôi rất lo, làm sao hoàn thành thật tốt nhiệm vụ, chẳng nghĩ được điều gì khác cả”. Ông phải mã hóa bức điện theo mã mới và phát trên làn sóng vô tuyến đến các đơn vị đang làm nhiệm vụ bảo vệ đường Hồ Chí Minh và đội hình hành quân đang rầm rập tiến vào Nam. Khi phát lên vô tuyến thì có nghĩa là cả quân ta và quân địch đều thu được tín hiệu, nên yếu tố bảo mật là quan trọng nhất. Giây phút đó ông đã rất hồi hộp và lo lắng, nhưng bản lĩnh người chiến sĩ cơ yếu được tôi luyện mấy chục năm trên đường Trường Sơn đã khiến ông xác định tư tưởng, tập trung vào công việc.

Bức điện mật của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Ngày hôm sau, ông và anh em trong đơn vị cơ yếu phải dò sóng, nghe ngóng xem kẻ địch có phát hiện được nội dung bức điện không, nhưng “nó” đã được đảm bảo yếu tố bí mật tuyệt đối, các lực lượng của địch không có phản ứng lớn. Tuy nhiên, phải nhiều ngày sau, khi tiếp nhận, mã dịch và chuyển ra Bắc những trận đánh thắng của quân và dân miền Nam trên khắp các chiến trường, ông mới cảm thấy sung sướng và thở phào nhẹ nhõm vì đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, kịp thời truyền đạt sự chỉ đạo của Bộ Tổng tham mưu, trực tiếp là Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Mệnh lệnh của Đại tướng ngay sau đó đã được các cánh quân tiếp nhận và là “kim chỉ nam” tiến thẳng vào sào huyệt của kẻ thù. “Khi tiếp nhận tin và mã dịch bức điện báo tin quân ta đã tiến quân vào Dinh Độc Lập, anh em trong đội cơ yếu của tôi đã ôm nhau khóc òa sung sướng” – ông Nguyễn Đức Mãi xúc động kể tiếp. Vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh, ông lại là người vinh dự đầu tiên ở Đoàn 559 mã dịch và truyền đi bức mật điện của Bộ chỉ huy mặt trận cánh Đông do Trung tướng Lê Trọng Tấn chuyển về Bộ Tổng tham mưu thông báo quân ta đã chiếm lĩnh Dinh Độc Lập, tiếp nhận sự đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh và toàn bộ nội các chính quyền ngụy Sài Gòn…

Đất nước hoàn toàn giải phóng, Đại tá Nguyễn Đức Mãi tiếp tục gắn bó với ngành cơ yếu, nhưng trên cương vị Hiệu trưởng Trường Mật mã thuộc Bộ Quốc phòng. Đến năm 1991, ông mới chính thức nghỉ hưu. 41 năm quân ngũ là ngần ấy năm ông làm nhiệm vụ người chiến sĩ cơ yếu. Dù ở cương vị nào ông vẫn thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “Mật mã phải bí mật, nhanh chóng, chính xác. Các chú làm mật mã phải bí mật và đoàn kết”. Ông và đồng đội của mình, đã đóng góp những chiến công thầm lặng cho chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Trong những ngày tháng 4 lịch sử này, ký ức một thời hoa lửa lại có dịp tràn về, khiến người cựu binh già bồi hồi, xao xuyến…

Phan Hoạt – Mạnh Hà

cand.com.vn

Chúc Đại tướng khoẻ!

Tháng Năm 6, 2011 Bình luận đã bị tắt

Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Những ngày này, chúng ta vui mừng khi Đại tướng Võ Nguyễn Giáp, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người Anh Cả của lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam tròn 100 tuổi. Trong số các danh tướng của thế kỷ XX được thế giới ghi nhận cho đến nay, thì chỉ còn Đại tướng là còn sống.

“Chúc Đại tướng khỏe!”. Đã bao nhiêu lần, những người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam hô căng lồng ngực câu này, khi được gặp Đại tướng.

Và hôm nay, mừng Đại tướng thượng thọ, thiết nghĩ chẳng còn biết nói lời nào hơn ngoài câu: “Chúc Đại tướng khỏe!”.

Nhân dịp này, Chuyên đề ANTG xin trích đăng một đoạn trong tác phẩm “Đôi dòng suy ngẫm” (chương X) trong “Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Tổng tập hồi ký” – Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006.

“Độc lập và tự chủ, thông minh và sáng tạo, đó là nét nổi bật của học thuyết quân sự Việt Nam.

Trong lịch sử ông cha ta đánh giặc, nhất là từ thời Lý, Trần về sau, các bậc tiền nhân đọc nhiều sách của các nhà chiến lược quân sự Trung Hoa cổ, nhưng không phải lúc nào cũng chủ trương “đánh mau giải quyết mau” hoặc phải có lực lượng gấp địch mười lần mới tiến công. Trong những năm kháng chiến vừa qua, các tướng lĩnh Việt Nam tiếp thu tinh hoa quân sự thế giới, nhưng đánh thì theo cách đánh Việt Nam. Chính vì thế mà chúng ta đã thắng.

Năm 1971, tôi sang Liên Xô khẳng định quyết tâm đánh Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn và đề nghị bạn có sự giúp đỡ đặc biệt. Tại cuộc họp với các đồng chí trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô, đồng chí Côxưghin hỏi: “Tôi xin hỏi đồng chí Giáp. Đồng chí nói Việt Nam đánh thắng Mỹ. Tôi muốn biết các đồng chí có bao nhiêu sư đoàn bộ binh cơ giới và Mỹ có bao nhiêu? Xe tăng, pháo hạng nặng, máy bay chiến đấu…, các đồng chí có bao nhiêu và Mỹ có bao nhiêu? Khả năng về phòng không, về tên lửa, về thông tin, rađa của các đồng chí như thế nào? Xin đồng chí nói qua cho tôi biết”.

Tôi trả lời: “Tôi hiểu câu hỏi của đồng chí. Đồng chí muốn biết về vấn đề so sánh lực lượng giữa chúng tôi với Mỹ. Theo học thuyết quân sự Xôviết là như vậy. Học thuyết quân sự Xôviết là hết sức ưu việt, đã chiến thắng phát xít Đức. Điều đó rất rõ ràng. Nhưng tôi xin nói nếu chúng tôi đánh theo cách đánh của các đồng chí thì chúng tôi không đứng nổi được hai tiếng đồng hồ. Chúng tôi đánh theo cách đánh khác, cách đánh của Việt Nam, và chúng tôi sẽ thắng”. Sau ngày toàn thắng, có dịp trở lại Liên Xô, gặp lại đồng chí Côxưghin, tôi cảm ơn Liên Xô đã nhiệt tình giúp đỡ Việt Nam đánh Mỹ. Đồng chí vui vẻ nói: “Việt Nam thắng to quá, như thế tốt quá! Xin chúc mừng các đồng chí!”.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong dịp sinh nhật lần thứ 93

Một vấn đề có tính quy luật của chiến tranh nhân dân Việt Nam là: Toàn dân đánh giặc. Cả nước đánh Pháp, đánh Mỹ, không phân biệt tiền tuyến, hậu phương. Ý chí thống nhất Tổ quốc là thế và lực mạnh trong chiến tranh. Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Chiến trường Việt Nam là một. Cả dân tộc kết thành một khối trong tình đồng bào cùng chung giống nòi Hồng Lạc, không thể cắt chia. Thù nhà nợ nước là chung của cả dân tộc. Cả nước vùng lên đập tan xích xiềng, làm nên Cách mạng Tháng Tám.

Giặc Pháp quay lại xâm lược Nam Bộ, miền Bắc, miền Trung xung phong Nam tiến. Bắc Bộ là chiến trường chính, Trung Bộ và Nam Bộ phối hợp hết mình. Miền Nam là tiền tuyến lớn, nơi “trực tiếp quyết định” thắng lợi, miền Bắc là hậu phương lớn, có vai trò “quyết định nhất”. Dưới mưa bom Mỹ, miền Bắc kiên cường đánh trả, chi viện sức người, sức của, tất cả vì miền Nam ruột thịt. Cả nước vì miền Nam, miền Nam vì cả nước. Miền Nam gọi, miền Bắc trả lời. Kẻ thù đụng đến miền Bắc một, miền Nam đánh cho chúng gấp năm, gấp mười lần. Con số hơn một triệu cán bộ, chiến sĩ quê miền Bắc “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, trong đó hàng chục vạn người đã vĩnh viễn nằm lại trên chiến trường là một biểu trưng chói lọi.

Trong những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cũng đã có lúc, do không nắm vững đường lối quân sự của Đảng và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, không đi sát thực tiễn và không làm theo quy luật, chủ quan, duy ý chí, nên đã hạn chế không ít thắng lợi và chịu nhiều tổn thất.

Đã có một thời gian, mối quan hệ giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy là đề tài tranh luận kéo dài trong các cán bộ quân sự ở chiến trường. Một số đồng chí nhận thức không đúng, chỉ chú trọng đẩy mạnh đấu tranh chính trị, chiến tranh du kích, chỉ chăm lo xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang địa phương và dân quân du kích, coi nhẹ xây dựng bộ đội chủ lực. Một số nhà chiến lược nước ngoài nghiên cứu về Việt Nam cũng thường cho rằng chiến tranh nhân dân đồng nghĩa với chiến tranh du kích. Đó là những nhận thức hoàn toàn sai trái. Đảng ta không bao giờ có một chiến lược quân sự thuần túy, và cũng chưa bao giờ hạn chế chiến tranh ở mức độ chiến tranh du kích.

Chiến lược chiến tranh cách mạng của Đảng là một chiến lược tổng hợp, kết hợp đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn. Trong khi đẩy mạnh đấu tranh chính trị, phát triển chiến tranh du kích, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng bộ đội chủ lực thành những binh đoàn mạnh từ tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn đến quân đoàn, trở thành những “quả đấm thép” đủ sức giáng cho địch những đòn tiêu diệt lớn, quyết định chiến trường.

Lại như do không nắm vững quy luật của khởi nghĩa và chiến tranh nên đã có chủ trương kết hợp với tổng công kích, tiến hành tổng khởi nghĩa trong chiến tranh ngay khi trên chiến trường còn hơn nửa triệu quân Mỹ và hơn một triệu quân ngụy và quân các nước phụ thuộc. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968) để lại một bài học sâu sắc về khuyết điểm này. Trận tổng tiến công bất ngờ và đồng loạt đánh vào các đô thị và hầu hết các căn cứ hậu cần lớn của địch giành thắng lợi vang dội, đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Lẽ ra phải chuyển hướng hoạt động về nông thôn, nhưng chúng ta lại chủ trương tiếp tục tiến công vào các đô thị nhằm dấy lên tổng khởi nghĩa, cuối cùng tổng khởi nghĩa vẫn không diễn ra, cách mạng phải chịu nhiều tổn thất.

Một ví dụ khác do làm sai quy luật nên phải trả giá bằng xương máu. Cách mạng là tiến công. Tư tưởng chiến lược của chiến tranh cách mạng bao giờ cũng là tư tưởng tiến công. Còn hình thức tác chiến thì có tác chiến tiến công, tác chiến phòng ngự kể cả về chiến lược, chiến dịch và chiến đấu. Tuy nhiên, do nhận thức không đúng nên trong một thời gian dài, một số cán bộ cho rằng, trong chiến tranh chỉ có đường lối tiến công, phủ nhận phòng ngự, thậm chí coi phòng ngự là điều cấm kỵ. Vì vậy mà trong một số trận đánh, bộ đội bị thương vong.

Trong những năm gần đây, Mỹ và một số cường quốc phát triển vũ khí và trang bị hiện đại. Cuộc chạy đua vũ trang vẫn đang tiếp tục. Đi đôi với sự xuất hiện của một chiến lược mới, đặt “nhân quyền” lên trên “chủ quyền”, một số thế lực hiếu chiến tự cho phép xâm lược một quốc gia độc lập và có chủ quyền, bất chấp luật pháp quốc tế. Sau chiến tranh vùng Vịnh (1991) vừa qua lại diễn ra cuộc chiến tranh xâm lược Kosovo. Một điều mới đặt ra: Trong điều kiện chiến tranh xâm lược với vũ khí công nghệ cao, thì học thuyết quân sự Việt Nam còn có giá trị hay không?

Chúng ta không bao giờ chủ quan khinh địch, luôn coi trọng đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và kỹ thuật quân sự, phát triển học thuyết quân sự lên những bước mới. Và chúng ta có thể khẳng định ngay rằng: Học thuyết quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh hoàn toàn có khả năng giữ vững nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược bất kể từ đâu tới.

Nền văn hóa Việt Nam, đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng, học thuyết quân sự Việt Nam độc đáo, sáng tạo, không ngừng phát triển là sức mạnh của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

Hiểu được điều cơ bản ấy, sẽ giải đáp được các câu hỏi đã đặt ra.

Sau ngày quân và dân ta đập tan cuộc tập kích bằng không quân chiến lược B.52 của Mỹ, nhà sử học Pháp Pie Risa Phêray đã nói rất đúng rằng: “Những tên lửa SAM được sử dụng bởi tư tưởng lấy nhỏ thắng lớn, bởi nền văn hóa Việt Nam, bởi “tư chất Việt Nam” (la Vietnamité) theo chúng tôi chính là chìa khóa mở cửa thắng lợi của nước Việt Nam” (1).

Không hiểu được điều đó, kẻ thù chuốc lấy thất bại cũng là lẽ tất nhiên.

Kennơđi con (J.F.K Junior) khi còn sống đã sang thăm Việt Nam với thiện chí tìm hiểu sâu về sai lầm của cha mình đối với đất nước hòa bình và hữu nghị này. Sau khi thăm Pắc Bó về, anh ta băn khoăn không hiểu vì sao trong những ngày gian khổ ấy, sống nơi hang đá hoang sơ mà những người Việt Nam lại có thể tin sẽ có thắng lợi hôm nay? Hơn nữa lại thắng ngay khi Pháp và Mỹ có những cố gắng chiến tranh cao nhất. Khi nghe tôi nói qua về nền văn hóa và lịch sử Việt Nam, anh ta vui mừng thật sự như được vỡ lẽ ra, điều mà Kennơđi cha và con trước đây không hề hay biết.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đi kiểm tra một cung đường vận tải chiến lược.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp về lại Điện Biên trong dịp Kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp dịp Kỷ niệm 55 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ.

Phút thư giãn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Tháng 11/1995, theo đề nghị của phía Mỹ, tôi đã tiếp ông Rôbớt Mắc Namara, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng dưới thời hai Tổng thống Kennơđi và Giônxơn, một trong những kiến trúc sư của chiến tranh xâm lược Việt Nam. Trong câu chuyện, tôi nhận xét:

– Trong cuốn hồi tưởng của ngài (2) có một điều mà tôi cho là đúng. Đó là Mỹ đánh Việt Nam mà không hiểu gì về lịch sử, địa lý, văn hóa, phong tục, tập quán về con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam nói chung và những người lãnh đạo Việt Nam nói riêng. Chúng tôi có một nền văn hóa vững bền, có một học thuyết quân sự độc đáo và được thử thách trong lịch sử. Vì vậy mà chúng tôi đã thắng.

Ông Mắc Namara đáp:

– Vâng, đúng như vậy.

Cuối cùng thì ông cũng đã nhận ra được một chân lý, rất tiếc là đã quá muộn màng”.

—————————————————————————–

1. Pie Risa Phêray, Nước Việt Nam từ nguồn gốc xa xưa đến ngày nay, Nxb Báo chí Đại học Pháp, 1990, tr.87.

2. R.S Mắc Namara, Nhìn lại quá khứ. Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995

Võ Nguyên Giáp

cand.com.vn

Người giữ Sổ tiết kiệm của Bác Hồ

Tháng Năm 6, 2011 Bình luận đã bị tắt

Mười một năm ông được trực tiếp phục vụ Bác Hồ, trong đó nhiều năm là Trưởng phòng Văn thư của Văn phòng Phủ Chủ tịch. Sau khi Bác Hồ mất, cũng chừng ấy năm, ông là Thư ký riêng của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng. Nhưng có một điều ít người được biết về ông: ông là người đứng tên “Lê Hữu Lập” trên Sổ tiết kiệm của Bác Hồ, lo nhiều việc chi tiêu của Bác do chính Bác giao.

Ông tiếp tôi trong căn phòng nhỏ của gia đình, ở sâu trong một ngôi nhà có nhiều hộ trên phố Hàng Chuối, Hà Nội. Căn phòng giản dị, có cả một chiếc gác xép lửng giữa phòng, như thường thấy trong nhiều căn hộ tập thể ở Hà Nội. Bộ salon tiếp khách đã cũ, cùng kiểu dáng, kích cỡ với các bộ salon nhiều gia đình ở Hà Nội sử dụng cách đây hơn 10 năm.

Đã ở tuổi gần 90 nhưng sức khỏe của ông còn tốt, nhất là ông còn rất minh mẫn, nhớ từng chi tiết trong từng câu chuyện kể về những năm tháng được phục vụ Bác Hồ, Bác Tôn. Có nhiều chuyện ông kể tôi đã được đọc đâu đó trong sách báo, nhưng có những chuyện lần đầu tiên tôi được nghe, được biết.

Hai lần nhận nhiệm vụ đặc biệt

Sau mấy năm học ở Trường Trung học tư thục Thăng Long, Hà Nội, nơi có các thầy giáo nổi tiếng như Bùi Kỷ, Đặng Thai Mai, Phan Thanh, Hoàng Minh Giám, Võ Nguyên Giáp… giảng dạy, do gia đình đông anh em, cậu học sinh Lê Hữu Lập đành phải bỏ dở việc học hành, lên Thái Nguyên giúp việc cho một người họ hàng làm ăn, buôn bán.

Năm 1941, lấy vợ, lại là con cả, theo lời cha, Lê Hữu Lập trở về quê ở Nam Trực, Nam Định làm ruộng và lo việc thờ cúng tổ tiên. Chính thời gian đó, anh thấy rõ cảnh khổ cực của bà con nông dân, tận mắt chứng kiến nạn đói thê thảm năm 1945 ở quê nhà, nên khi Cách mạng Tháng 8-1945 bùng nổ, anh hăng hái tham gia khởi nghĩa, cướp chính quyền ở quê, được kết nạp vào Đảng, làm Bí thư Chi bộ Tiểu khu Nam Trực.

Giữa năm 1947, anh rời gia đình đi kháng chiến. Hết làm cán bộ Văn phòng Tỉnh ủy Thái Nguyên, cán bộ Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy, Hiệu trưởng Trường Đảng Hoàng Văn Thụ ở Việt Bắc, anh lại đi phát động quần chúng đóng thuế nông nghiệp ở tỉnh Hoà Bình rồi được chọn đi học một ngành hoàn toàn mới, trước đây chưa bao giờ nghĩ tới: ngành Cơ yếu!

Đầu năm 1952, học xong, anh nhận nhiệm vụ đặc biệt: về làm công tác cơ yếu tại Văn phòng Trung ương Đảng. Anh là Bí thư Chi bộ đầu tiên của đơn vị này kể từ khi thành lập…

Năm 1958, khi Bác Hồ cần một cán bộ tin cẩn đã qua công tác cơ yếu để phụ trách Phòng Văn thư của Bác, lần thứ hai, ông Lê Hữu Lập nhận nhiệm vụ đặc biệt: làm Trưởng phòng Văn thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Cuốn Sổ tiết kiệm và tấm lòng của Bác Hồ đối với người thân và với người dân bị oan

Tháng 7/1958, ông Lê Hữu Lập chính thức được chuyển sang làm việc tại Văn phòng của Bác Hồ. Thời gian này Bác Hồ mới sang ở nhà sàn, xây dựng xong ngày 19/5/1958. Văn phòng của Bác lúc đó rất ít người, ngoài ông Vũ Kỳ là Thư ký riêng của Bác, đồng thời là Chánh Văn phòng, chỉ có ông Lê Hữu Lập là Trưởng phòng Văn thư, ông Cù Văn Chước là Phó phòng, ông Trần Văn Vượng đánh máy và một vài anh em nấu ăn, lái xe, cần vụ…

Công việc chính của ông Lập là tiếp nhận và trình Bác những công văn, thư từ, báo chí gửi Bác; trình ký những Sắc lệnh, Thư ủy nhiệm ngoại giao, các hồ sơ khen thưởng… Báo chí gửi đến, kể cả các báo địa phương, Bác thường đọc rất kỹ, đánh dấu hoặc ghi ý kiến vào những bài báo đáng chú ý, gửi tặng Huy hiệu của Người cho những người làm việc tốt mà báo chí nêu gương.

Sau này, khi tuổi Bác ngày một cao, để bảo vệ đôi mắt cho Người, từ năm 1962 ông Lập được giao cùng ông Chước tổng hợp tin tức, lựa chọn tin, bài trên các báo, mỗi ngày hai lần vào đầu giờ buổi sáng và buổi tối trước khi Bác nghỉ, đọc cho Bác nghe…

Ông là người được giao đứng tên “Lê Hữu Lập” trên cuốn Sổ tiết kiệm của Bác, gửi ở một quầy tiết kiệm trên phố Hàng Gai, Hà Nội. Tiền tiết kiệm của Bác được dành dụm từ tiền lương hằng tháng còn lại sau khi trừ mọi chi tiêu, sinh hoạt và là tiền nhuận bút Bác viết bài cho Báo Nhân Dân.

Dịp Bác đi dự Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô, là đại biểu mời, Bác được Đảng bạn tặng một số tiền, Bác dặn nhập số tiền đó vào quỹ của Đảng, không để vào Sổ tiết kiệm của Người. Bác thường dùng tiền tiết kiệm để mua quà tặng trong những dịp cần thiết. Có lần đi công tác về, thấy bộ đội phòng không trực chiến dưới nắng chói chang của mùa hè, Bác nói ông Lập rút tiền trong Sổ tiết kiệm trao cho Bộ Quốc phòng làm quà, mua nước giải khát cho anh em…

Khi được tin ông Nguyễn Sinh Mợi, người anh em thúc bá bị đau nặng, Bác Hồ tự tay viết thư gửi đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An:

Thân gửi đồng chí Võ Thúc Đồng

Được tin cụ Mợi đau nặng, tôi không có điều kiện về thăm nom chăm sóc. Tôi nhờ đồng chí giúp đỡ chữa chạy. Tôi cảm ơn. Thân ái“.

Bác giao ông Lập cầm bức thư vào Vinh đưa tận tay đồng chí Võ Thúc Đồng. Khi biết cụ Mợi không qua khỏi, Bác cho gọi anh Nguyễn Sinh Định, con trai cụ Mợi, cán bộ Ủy ban Hành chính Hà Nội, cùng các con vào chỗ Bác. Bác dặn ông Lập rút ở Sổ tiết kiệm của Bác 200 đồng để giúp lo liệu công việc cho cụ Mợi.

Lần đầu tiên sau nhiều năm phục vụ Bác, ông Lập được chứng kiến các cháu gọi Bác bằng ông, bằng chú. Nhìn ông cháu âu yếm nhau, ông Lập thật sự xúc động. Ông biết nhiều khi vì công việc chung Bác phải nén tình cảm riêng. Bác muốn họ hàng và cả quê hương tự mình phấn đấu vươn lên, không dựa dẫm, đòi hỏi đặc quyền, đặc lợi…

Bác lo nhiều công việc lớn, nhưng không bỏ qua những việc nhỏ, nhất là những lời kêu oan của người dân. Đọc thư gửi lên Bác, ông Lập phải đọc thật kỹ, báo cáo với Bác từng trường hợp người dân viết thư gửi Bác để cầu cứu.

Có lần nhận được lá thư của ông K, một trí thức giỏi tiếng Pháp, làm ở một nhà xuất bản, kêu cứu Bác vì bị xử tù oan. Bác giao ông Lập báo cáo ông Vũ Kỳ rồi đi gặp các cơ quan có trách nhiệm yêu cầu xem xét việc này, báo cáo Bác. Kết quả sự việc sau khi các cơ quan có trách nhiệm điều tra, xem xét cho thấy ông K bị xử tù oan vì bị vu khống.

Sau 9 tháng bị tù oan, ông K được trả lại tự do. Ngày ra tù, vợ chồng ông tìm đến nhà ông Lập cảm ơn và chỉ có lời thỉnh cầu duy nhất là nhờ ông Lập thưa lại với Bác Hồ lòng biết ơn vô hạn của ông bà trước tấm lòng bao dung của Người!

Vị đắng của tách cà phê

Mười một năm trực tiếp phục vụ Bác Hồ và cũng chừng ấy năm làm Thư ký riêng của Bác Tôn, ông Lê Hữu Lập học tập ở hai vị Chủ tịch nước nhiều đức tính tốt đẹp, thấy cả hai Bác vĩ đại trong cả cuộc sống đời thường, vô cùng giản dị, luôn gần gũi mọi người, mọi việc lớn nhỏ đều vì nước, vì dân.

Ông là người từng được chứng kiến những giây phút Bác trầm ngâm khi nghe ông đọc cuốn truyện “Bất khuất” của Nguyễn Đức Thuận, thấy Bác vẫn thư thái, ung dung dạo bộ sau khi nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp báo cáo về “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” năm 1964 do Mỹ tạo ra để lấy cớ ném bom miền Bắc, thấy Bác “cười chảy nước mắt” khi nghe ông đọc một mẩu chuyện vui trên báo…, nên biết Bác tuy là lãnh tụ tối cao, nhưng Bác cũng là một con người, cũng có những thú vui và thói quen bình thường như những người bình thường khác, chứ không phải là một ông thánh, xa lạ với đời sống con người!

Biết Bác hút thuốc lá nhiều là hại sức khỏe, nhưng các bác sĩ ở Hội đồng bảo vệ sức khỏe không ai nỡ khuyên Bác bỏ thuốc lá vì đó là thú vui riêng từ hàng chục năm nay của Bác, có lẽ là từ hồi Bác còn trẻ.

Thấy Bác ho nhiều, các bác sĩ chỉ khuyên Bác nên hút bớt thuốc lá. Nhưng tự Bác đã bỏ thuốc, một việc không dễ, nhất là đối với một người quen hút từ nhiều năm, lại thường ngồi làm việc một mình.

Bác còn có một thói quen là gần cuối giờ làm việc buổi sáng thường uống một tách cà phê nóng. Nhưng khi uống cà phê Bác lại nhớ thuốc lá nên sau này Bác bỏ cả cà phê. Sau mấy chục năm, ông Lập vẫn còn nhớ cảm giác của mình khi ngày đầu tiên Bác đưa tách cà phê của Bác cho ông uống sau khi Bác cai thuốc: uống tách cà phê của Bác mà cảm thấy vị cà phê như đắng hơn!

Mười một năm thường xuyên có mặt trong nhà sàn của Bác, ông Lập quen thuộc từng đồ vật trong phòng. Nhà sàn của Bác làm bằng gỗ mỏng, khuất trong khu vườn bách thảo nên bí, mùa hè thì nóng, mùa đông thì lạnh. Đầu giường Bác có một chiếc quạt lá cọ, không phải để phòng mất điện vì đã có máy nổ dự phòng. Bác không để quạt chạy liên tục. Bác bảo “máy cũng phải nghỉ mới bền lâu”. Còn ông Lập thì nghĩ, Bác dùng quạt lá cọ vì Bác không muốn sống xa cách cuộc sống của nhân dân khi đó còn rất khó khăn, thiếu thốn!

Trên bàn làm việc của Bác thường có một chiếc đĩa nhỏ để mấy bông hoa nhài, hoa ngọc lan. Nhiều lần trước khi bước lên nhà sàn làm việc với Bác, ông Lập thường ngắt một vài nụ nhài sắp nở bỏ vào trong túi áo ngực. Ngồi làm việc với Bác một lúc, người ấm lên, mấy nụ nhài trong túi áo dần nở, mùi thơm ngát, hòa cùng hương nhài trên bàn làm việc của Bác thoang thoảng, dễ chịu vô cùng.

Ông Lê Hữu Lập nghỉ hưu đã trên hai mươi năm nay. Niềm vui của ông bây giờ là thấy con cháu trưởng thành, luôn giữ được “nếp nhà” mà ông bà truyền lại. Người con cả của ông là Lê Quốc Trung, nguyên Tổng Giám đốc TTXVN, nay là Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam.

Ông tự hào nhất về phần thưởng mà rất ít người có, đó là tấm Bằng khen số 03, ngày 3/9/1972 của Chủ tịch nước tặng, vì ông “Đã tận tụy hoàn thành nhiệm vụ phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người còn sống”

cand.com.vn

Cuộc đấu tranh ngoại giao suốt 823 ngày đêm giữa sào huyệt địch

Tháng Năm 6, 2011 Bình luận đã bị tắt

Lễ ký kết hiệp định Paris, năm 1973.

Việt Nam ta có rất nhiều kinh nghiệm đúc rút được từ tổ chức và hoạt động của Ủy ban Quốc tế (UBQT) từ Hiệp định Giơnevơ tháng 7/1954 trong cuộc kháng chiến chống Pháp nên rất coi trọng tổ chức và hoạt động của UBQT được tổ chức theo Hiệp định Paris về Việt Nam 27/1/1973 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Chung quanh vấn đề quốc tế quan trọng này ta và đối phương có 2 quan điểm chính và nhiều chủ trương cụ thể rất khác nhau, thậm chí đối lập nhau, phải qua đấu tranh không khoan nhượng, rất phức tạp, đôi khi rất quyết liệt mới đi đến những điều khoản thống nhất đã được ghi trong Hiệp định Pari về Việt Nam và Nghị định thư kèm theo.

Trước hết, hãy xem hai quan điểm chính giữa ta và Mỹ đối lập nhau thế nào?

Về phía Mỹ: Mỹ để cho vai trò của UBQT, coi đó là tổ chức có quyền lực cao nhất trong bộ máy thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam, đứng trên Ban Liên hiệp quân sự (LHQS). Ý đồ đen tối của Mỹ là dùng tổ chức quốc tế này duy trì nguyên trạng chính trị ở miền Nam, củng cố thế lực cho chế độ Sài Gòn, kiềm chế lực lượng, thắng lợi và uy tín của cách mạng miền Nam, bảo vệ chế độ thực dân kiểu mới của Mỹ trong điều kiện Mỹ buộc phải chấm dứt hoàn toàn dính líu quân sự ở miền Nam Việt Nam.

Về phía ta: Ngược lại, ta đề cao vai trò Ban LHQS, coi việc thi hành hiệp định là trách nhiệm của các bên đã ký kết. 4 bên LHQS gồm đại diện của các bên có liên quan có vai trò quyết định nhất trong thi hành hiệp định, có nhiệm vụ, chức năng định ra thể thức thi hành hiệp định và trực tiếp thực thi các nhiệm vụ, chức năng, thể thức đó UBQT có vị trí, vai trò rất quan trọng là thể hiện sự công nhận của quốc tế đối với giá trị của hiệp định và bảo đảm sự đánh giá khách quan, trung lập trong việc thi hành nghiêm chỉnh hiệp định mà 4 bên đã ký kết.

UBQT có vai trò quan trọng kiểm soát và giám sát việc thi hành hiệp định trong mối quan hệ phối hợp chặt chẽ và dựa trên hoạt động của Ban LHQS, không đứng ngoài lại càng không thể đứng trên Ban LHQS. Ta coi UBQT là một sách lược quan trọng trong giải pháp chính trị, tranh thủ dư luận quốc tế phục vụ cho cuộc đấu tranh của ta trên cả 3 mặt: chính trị, quân sự, ngoại giao.

Hai quan điểm đối lập nhau đó lại được thể hiện rất rõ trên từng chủ trương, từng vấn đề cụ thể về tổ chức bộ máy, về tài chính, về nhiệm vụ, quyền hạn… của UBQT.

Về tổ chức bộ máy của UBQT: Mỹ đòi lập bộ máy UBQT rất lớn từ Trung ương xuống địa phương rải khắp miền Nam có tổng số từ 7.000-12.000 người với 334 tổ công tác, có vũ trang, bố trí dày đặc nhiều tổ dọc khu phi quân sự và biên giới Việt Nam – Lào – Campuchia. Ngược lại, Mỹ rất coi nhẹ tổ chức Ban LHQS, chỉ cần ở cấp Trung ương, khu vực và tổ với 500 người. Ý đồ thâm độc của Mỹ là dưới danh nghĩa của UBQT, hợp pháp hóa đưa vào miền Nam Việt Nam một đội quân chiếm đóng nước ngoài làm nhiệm vụ cảnh bị quốc tế thay thế quân Mỹ buộc phải rút hết, nhằm ngăn chặn tấn công và nổi dậy của quân và dân miền Nam, bịt chặt các cửa khẩu ra vào dọc khu phi quân sự và biên giới, để triệt để cô lập cách mạng miền Nam Việt Nam, phục vụ cho âm mưu tăng cường chiến tranh, vi phạm và phá hoại hiệp định của Mỹ – ngụy.

Mỹ rút quân theo hiệp định Paris.

Trên đây là một trong những vấn đề mâu thuẫn rất gay cấn giữa ta và Mỹ. Ta chủ trương tổ chức bộ máy LHQS phải cao hơn với số người nhiều hơn UBQT. UBQT chỉ có bộ máy tổ chức hợp lý, số lượng nhân viên vừa phải, không có vũ trang, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, tối đa là 55 tổ với 600 người và con số này sẽ giảm dần trong quá trình hoàn thành nhiệm vụ từng bước.

Kết quả đàm phán cuối cùng được xem là thắng lợi của ta. Ta đã đạt được thỏa thuận theo hiệp định và nghị định thư là UBQT có 1.160 nhân viên với 59 tổ công tác các loại, trong khi đó, Ban LHQS có 3.300 người với 7 tổ khu vực và 26 tổ địa phương. Tỉ lệ thành viên UBQT và Ban LHQS là 1/3. Một tỉ lệ nói lên thắng lợi của ta, thất bại của Mỹ.

Về tài chính của UBQT: Mỹ cũng lợi dụng biến vấn đề tưởng chừng đơn thuần về tiền bạc này thành công cụ, phương tiện phục vụ mưu đồ chính trị đen tối của họ. Mỹ đòi UBQT có một ngân sách lớn do ủy ban tự quyết định nhằm bảo đảm cho UBQT không bị hạn chế về tài chính trong việc xây dựng bộ máy và trong hoạt động phục vụ mưu đồ chính trị của Mỹ – ngụy. Mỹ đưa ra cách đóng góp không bình đẳng của kẻ giàu, theo tỉ lệ Mỹ – ngụy mỗi bên đóng góp 28%, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam mỗi bên đóng góp 18%, nhằm dễ dàng dùng vấn đề tài chính lũng đoạn UBQT, đồng thời đề cao thiện chí của họ, hạ uy tín của ta.

Ngược lại, ta chủ trương khống chế ngân sách của UBQT một cách hợp lý theo tổ chức và chức năng của Ủy ban; ngân sách dự trù của UBQT phải được 4 bên ký kết hiệp định duyệt trên cơ sở hằng năm và giảm dần theo quá trình hoàn thành nhiệm vụ từng bước; việc đóng góp phải theo tỉ lệ bình đẳng giữa 4 bên ký kết nhằm thể hiện thiện chí của ta, đề cao uy tín của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chống Mỹ – ngụy dùng tài chính thao túng UBQT.

Do đấu tranh của ta có cơ sở pháp lý và thực tế vững chắc buộc Mỹ phải đồng ý 4 bên đóng góp bình đẳng 23% và 4 bên ký kết hiệp định thông qua ngân sách UBQT hằng năm. Mỗi nước thành viên UBQT đóng góp 2%.

Về thành viên của UBQT: Hai bên đã đề cập trong cuộc gặp riêng giữa Lê Đức Thọ và Kissinger ngày 15/9/1972.

Ta đề nghị UBQT gồm 4 nước. Mỹ vẫn đưa đề nghị UBQT gồm 5 nước và nói rõ thêm là 4 nước do hai bên thỏa thuận, còn nước thứ 5 do Tổng thư ký LHQ chỉ định nhằm biến UBQT thành công cụ riêng của Mỹ. Mỹ lại giới thiệu Nhật Bản và Indonesia làm thành viên của UBQT. Mỹ còn yêu cầu đưa Nam Triều Tiên, một nước có quân tham chiến tại miền Nam Việt Nam tham gia UBQT. Cuộc mặc cả cứ thế kéo dài từ tháng 9/1972 đến ngày 19/1/1973 hai bên mới thỏa thuận trong Nghị định thư về UBQT. Ngày 27/1/1973 ký Hiệp định Pari về Việt Nam. Tất cả các bên chấp nhận UBQT gồm đại biểu 4 nước: Ba Lan, Hungari, Canada và Indonesia.

Như vậy, cuối cùng ta đạt được yêu cầu UBQT 4 thành viên quốc gia có sự cân bằng lực lượng của đại diện mỗi bên trong UBQT.

Về nhiệm vụ, quyền hạn của UBQT: Mỹ đòi UBQT có vị trí, vai trò, quyền hạn cao hơn với nhiệm vụ và hoạt động rộng hơn cả Ban LHQS, hoạt động không hạn chế, hoạt động độc lập, tự do đi lại khắp miền Nam Việt Nam, thậm chí khắp Việt Nam; tự ý điều tra vi phạm ngăn ngừa, phát hiện vi phạm, giải quyết vi phạm, có quan hệ với UBQT Lào, Campuchia. Ngang ngược hơn Mỹ còn đòi UBQT chỉ trực thuộc Hội nghị Quốc tế, có đặc quyền bất khả xâm phạm cao hơn Đoàn ngoại giao, đứng trên Ban LHQS…

Ta kiên quyết bãi bỏ và đấu tranh không khoan nhượng quan điểm sai trái này của Mỹ. Do lập luận của ta vững chắc có cơ sở pháp lý nên buộc Mỹ phải chấp nhận quan điểm của ta về vấn đề quan trọng này. Ta chủ trương UBQT chỉ có chức năng kiểm soát và giám sát việc thi hành các điều khoản được quy định trong hiệp định, không lấn sang nhiệm vụ chủ yếu và quan trọng của Ban LHQS. UBQT trực thuộc 4 bên ký kết Hiệp định Paris.

Thực tế ở Việt Nam đã cho thấy rằng với Hiệp định Giơnevơ 1954, sự có mặt của UBQT đã chẳng không có hiệu lực phát hiện, ngăn chặn nguy cơ Mỹ – ngụy vi phạm trắng trợn hiệp định tăng cường chiến tranh xâm lược, phá hoại hiệp định đó sao? Trên cơ sở phân tích có lý với lập luận vững chắc đó ta khẳng định rằng: UBQT không thể đứng trên và hoạt động rộng hơn Ban LHQT được.

Qua 4 tháng (từ 15/9/1972 đến 19/1/1973) đấu tranh kiên quyết và lập luận vững chắc trên của ta, Mỹ buộc chấp nhận về cơ bản quan điểm của ta như đã ghi trong hiệp định và Nghị định thư: “Việc thi hành hiệp định là trách nhiệm của các bên ký kết. Nhiệm vụ UBQT là kiểm soát và giám sát các điều khoản nói trong “Điều 18 của hiệp định”. UBQT điều tra các vi phạm theo yêu cầu của Ban LHQS và khi tiến hành nhiệm vụ này UBQT sẽ hành động với sự giúp đỡ và hợp tác của các bên có liên quan…

Nếu nói “Hiệp định Paris là thắng lợi ngoại giao tuyệt vời” (cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng), “là một thất bại lớn của Mỹ” – (cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ) thì cũng có thể nói ta đấu tranh buộc Mỹ chấp nhận về tổ chức bộ máy và hoạt động của UBQT theo chủ trương của ta như đã ghi tại Điều 18 của hiệp định là thắng lợi quan trọng của ta, là thất bại của Mỹ – ngụy.

UBQT kiểm soát và giám sát được thành lập ngày 24/1/1973, hoạt động và tồn tại đến những ngày cuối tháng 4/1975.

Việc ta giành toàn thắng trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam, đánh dấu sự kết thúc của UBQT. Các đoàn Ba Lan và Hungari còn ở lại Sài Gòn chứng kiến và chung vui mùa Xuân Đại thắng của dân tộc Việt Nam mà trong đó bạn đã có sự đóng góp to lớn (kể cả xương máu của mình và đã có 2 sĩ quan Hungari hy sinh trong khi làm nhiệm vụ; Phó đoàn Hungari Uranowich đã dũng cảm cởi áo chỉ cho quân cảnh ngụy bắn vào tim mình khi tên này dọa bắn để ngăn cản ông vào trụ sở Ban LHQS ở trại Davis.

Qua hơn 2 năm hoạt động UBQT có lúc thuận lợi, lúc gặp khó khăn nhưng kết quả đạt được đáng ghi nhận và có thể rút ra một số kết luận sau:

UBQT kiểm soát và giám sát có vị trí, vai trò quan trọng trong giải pháp về mặt quốc tế của Hiệp định Paris. Đó là sự bảo đảm quốc tế về giá trị pháp lý của hiệp định; sự công nhận quốc tế đối với các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, đặc biệt là vai trò, vị thế của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Đài BBC ngày 25/9/1974 đã nói: “Chừng nào UBQT còn tồn tại thì Hiệp định Pari vẫn còn được cơ hội thực hiện. Một khi không còn UBQT thì chẳng khác gì đóng cả vào chiếc quan tài, đem chôn vùi Hiệp định Paris”.

Mặc dù âm mưu Mỹ – ngụy rất thâm độc nhưng ta và các thành viên XHCN (Ba Lan, Hungari) đã phối hợp chặt chẽ, đấu tranh tốt, đem lại một số kết quả tích cực, nổi bật là:

+ UBQT đã thực hiện được nhiệm vụ kiểm soát và giám sát Mỹ và quân chư hầu rút hết quân ra khỏi miền Nam Việt Nam và một số đợt trao trả tù binh, tù chính trị.

+ Đáng chú ý là trong tổng số 390 cuộc điều tra của UBQT đã tiến hành, UBQT đã kết luận được 5 vụ ngụy quyền Sài Gòn vi phạm hiệp định như: lấn chiếm Cửa Việt (28/1/1973), hành hung Đoàn ta ở Huế (10/2/1973), bắn phá vào trụ sở UBQT ở Bảo Lộc (2/4/1973), bắn phá vào núi Giai ở Tri Tôn (3/4/1973).

Trong khi đó, UBQT đã không có bất cứ một kết luận vi phạm nào đối với phía ta, kể cả những vụ ngụy quyền Sài Gòn làm rùm beng vu cáo ta về việc máy bay UBQT bị rơi ở Ly Tôn, quân ngụy tháo chạy ở Tống Lê Chân (Tây Ninh), cái gọi là “tù binh Bắc Việt”, bắn pháo vào Trường trung học Cai Lậy (Tiền Giang)…

+ Ta đã gửi đến UBQT một số lượng công hàm áp đảo đối phương để tố cáo, vạch mặt phá hoại hiệp định, đẩy mạnh chiến tranh. Qua đó góp phần vào cuộc đấu tranh dư luận chung, tạo thuận lợi cho hỗ trợ và phục vụ chiến trường, đặc biệt là trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh cho ngụy nhào vào lúc 11h30 ngày 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Nói cách khác có thể khẳng định rằng: Mỹ đã thất bại trong âm mưu lợi dụng UBQT phục vụ mưu đồ phá hoại Hiệp định biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ, ta đã giành thắng lợi trong việc dựa vào UBQT, tổ chức quốc tế quan trọng này làm cơ sở pháp lý để tố cáo Mỹ – ngụy phá hoại hiệp định, tranh thủ được dư luận trong nước và quốc tế ủng hộ ta có lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao, quân sự của ta suốt 823 ngày đêm giữa sào huyệt địch

* Nguyễn Hùng Đào – Nguyên sĩ quan báo chí Đoàn Đại biểu Quân sự Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Nguyễn Hùng Đào

cand.com.vn

Mạng “Tam tý” trong phủ đầu rồng

Tháng Năm 6, 2011 Bình luận đã bị tắt

Nguyễn Văn Thiệu trong lễ duyệt binh 19/6/1966 kỷ niệm 1 năm Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ.

Đề cập đến sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ Việt Nam Cộng hòa (VNCH), người ta lại thường gắn nó với vai trò của Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống thứ 3 nếu đếm ngược từ dưới lên. Hai người đi sau, Trần Văn Hương và Dương Văn Minh, thời gian làm “chủ nhân ông” tại Phủ Đầu Rồng chỉ tính bằng ngày, bằng giờ. Khi họ lên làm Tổng thống, miền Nam đã trong cơn hấp hối và không còn cơ hội để cứu vãn sự sụp đổ. Đó là “di sản” cay đắng mà họ được người tiền nhiệm Nguyễn Văn Thiệu miễn cưỡng trao lại.

Thật thú vị, dường như số phận của cả một chế độ cũng ứng nghiệm hoàn toàn với lá số tử vi của người đứng đầu chế độ – ít nhất là trên những…giai thoại!

Ngày 29/9/2001, tại TP Boston, bang Massachusetts, Hoa Kỳ, cựu Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu đã hóa người thiên cổ. Đến dự đám tang của ông có nhiều cựu quan chức, tướng lĩnh quân đội Sài Gòn, trong đó có Ngô Quang Trưởng, Phạm Quốc Thuần, Lê Minh Đảo, Đào Duy Ân, Mạch Văn Trường, Phan Hòa Hiệp, Lâm Ngươn Tánh, Trần Bá Di, Văn Thành Cao…, những người không chỉ là thuộc cấp mà còn từng là đồng ngũ lâu năm, hiểu Nguyễn Văn Thiệu rất rõ. Họ đã hết sức ngạc nhiên vì trong cáo phó do gia đình soạn, ông Thiệu cầm tinh Quý Hợi, sinh ngày 5/4/1923. Điều này ngược hẳn với hiểu biết của họ, và cũng là hiểu biết của số đông dân chúng miền Nam, rằng ông Thiệu cầm tinh Giáp Tý, sinh ngày 24/12/1924. Lá tử vi “tam trùng quý số” gồm sinh giờ Tý, tháng Tý và năm Tý của ông Thiệu một thời đã từng là đề tài tốn không ít giấy mực của báo chí miền Nam.

Nếu ngày sinh tháng đẻ này không đúng, sinh thời không được ông Thiệu công nhận, uống mật gấu cũng chẳng có “cao thủ” nào trong giới bốc phệ, giới nhâm cầm độn toán hay anh ký giả ti toe nào dám công khai lên báo bàn tán nhăng cuội. Và nếu không đúng, chẳng lẽ suốt 10 năm ngự trị trên cương vị lãnh đạo chóp bu của miền Nam (1965-1975), ông Thiệu lại không hề đính chính, mặc cho thiên hạ bàn tán đủ kiểu? Chưa hết, khai xuân năm Nhâm Tý 1972, ông Thiệu còn cho phép ba thầy Huỳnh Liên, Minh Nguyệt và Khánh Sơn – những cao thủ trong nghề chiêm tinh, tử vi đẩu số và bói toán mà ông tin tưởng và ưu ái nhất lên đài truyền hình nói trước dân chúng về vận mạng quốc gia. Lá tử vi quý số “tam Tý” của vị tổng thống đương nhiệm lại được ba thầy tranh nhau nhắc đến, gắn “chân mạng đế vương” của người đứng đầu thể chế với “một nền hòa bình và vĩnh cửu, cho dân chúng miền Nam, đang đến rất gần”. Nếu thế, cái tuổi Quý Hợi 1923 ghi trong cáo phó là lấy ở đâu ra?

Người ngoài có thể nhầm nhưng người thân trong gia đình của ông Thiệu thì tuyệt đối không thể nhầm. Đã có hơn một lần, vị cựu Tổng thống Việt Nam Cộng hòa đã từng giải thích điều này. Trong hồi ký “Từ Tòa Bạch Ốc đến Dinh Độc Lập” xuất bản năm 1988, đã được in và phát hành trong nước, tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nguyên phụ tá kinh tế của Nguyễn Văn Thiệu thuật lại: Ông Thiệu cho biết, ngày sinh của ông là 5/4/1923. Khi ghi danh đi học, phải khai giấy tờ, ông Thiệu không nhớ, lại không có người lớn trong gia đình ở bên cạnh để hỏi nên ông đã khai đại thành 24/12/1924, vì biết đó là ngày đẹp “Tý trùng”, cộng với việc ông sinh giờ Tý để thành “Tam trùng” – “tam tý vi vương”. Khai xong, ông mới có điều kiện hỏi lại để biết chính xác ngày sinh tháng đẻ của mình.

Nếu những gì viên tiến sĩ phụ tá nhớ lại là sự thật thì sự thật này chỉ hợp lý có… một nửa. Không như đa số người nghèo ở miền Trung hồi đầu thế kỷ XX, con em sinh ra ít khi nhớ rõ ngày tháng thật, ông Thiệu sinh ra trong một gia đình theo truyền thống Nho học. Nhà Thiệu ở làng Tri Thủy, xã Tri Hải, quận Thanh Hải, nhưng quê thì ở thôn Dư Khánh, xã Khánh Hải, (cách nhau một cửa biển hẹp), nay là thị trấn Khánh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận, một vùng có cảnh quan khá đẹp. Ông Nguyễn Văn Chung, thân sinh của Nguyễn Văn Thiệu là một nhân sĩ Nho học. Hai người anh lớn Nguyễn Văn Hiếu và Nguyễn Văn Kiểu cũng là trí thức, từng dạy học. Do đó, việc ông Thiệu có ngày sinh tháng đẻ chính xác, có lá số tử vi chính xác là điều dễ hiểu và hợp lý. Tuy nhiên, ở tuổi học trò tiểu học, khó có thể tin là cậu bé Nguyễn Văn Thiệu đủ tri thức chọn một ngày sinh “quý số tam trùng” để “khai đại” cho đời mình. Nếu thế, ông Thiệu có thể được coi là một thầy tử vi đại tài, năng khiếu phát lộ từ tấm bé!

Nguyễn Văn Thiệu và Nixon trong cuộc gặp trên đảo Midway ngày 8/6/1969.

Ngày sinh 5/4/1923 chẳng ăn nhập gì đến yếu tố Tý, chính xác rơi vào ngày Mậu Thân, tháng Ất Mão, năm Quý Hợi. Người có lá số này “tuổi thơ nghèo khổ, ít học, nhưng khôn ngoan và ương ngạnh. Tuy háo sắc nhưng rất kín đáo để che giấu tình cảm. Là người có vóc dáng thanh tú, điềm đạm, thông minh, mưu trí và nhất là biết chụp thời cơ. Có khiếu về văn nghệ và ngoại ngữ, lấy vợ sớm và phải có người mai mối”. Về tính cách, “đây là người ôn hòa, mềm mỏng, đa nghi, có nhiều mưu trí. Suốt cả cuộc đời đều được yên thân và hưởng giàu có sau 33 tuổi. Khuyết điểm của người tuổi này là: chủ quan, liều lĩnh, thô bạo, nóng nảy…”.

Tử vi Tây phương cho tuổi Quý Mão (1923) xác định ông Thiệu tuổi Miên Dương (Aries), mang các đặc điểm: “Mạng Hỏa tinh (Mars, thần Chiến tranh), là người nghị lực, rất can cường, tự tin, cá tính độc lập, có tài lãnh đạo nhưng độc tài, hiếu thắng và liều lĩnh. Mạng hỏa nên rất có uy quyền, óc sáng tạo, có tài ngoại giao nhờ ăn nói bặt thiệp. Người tuổi này hợp với việc điều binh, khiển tướng…”.

Quả thật, ông Thiệu mồ côi cha từ năm 11 tuổi, tuổi thơ khá vất vả. Học xong lớp 9, Nguyễn Văn Thiệu rời quê vào Sài Gòn, tá túc tại nhà người anh cả là Nguyễn Văn Hiếu (thời đệ nhị Cộng hòa là đại sứ VNCH tại Italia) để học nghề ở Trường Kỹ thuật Đỗ Hữu Vị. Sau đó, ông Thiệu được người anh này giúp đưa vào học trường dòng của Pellerin của Pháp tại Huế. Sau năm 1945, ông vào Sài Gòn nhờ ông Nguyễn Văn Hiếu xin cho học trường Hàng hải.

Nguyễn Văn Thiệu quả thật có duyên với đường binh nghiệp và thăng tiến rất nhanh. Pháp chủ trương “Việt Nam hóa chiến tranh”, hà hơi tiếp sức cho Bảo Đại lập nên cái gọi là Quân đội Quốc gia Việt Nam, Thiệu ghi tên vào học khóa sĩ quan khinh quân đầu tiên và trở thành thiếu úy trong Quân đội Liên hiệp Pháp vào năm 1949.

Năm 1955, Quân đội VNCH được thành lập, Nguyễn Văn Thiệu đã đeo lon trung tá, giữ chức Chỉ huy trưởng Trường Võ bị Đà Lạt. Lúc này ông Thiệu 33 tuổi, theo tuổi âm. Không lâu sau đó, ông ta lại được Ngô Đình Diệm thăng hàm đại tá, cất nhắc vào vị trí Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh, thay cho Đại tá Woòng A Sáng, một tay chỉ huy thiện chiến nhưng bất trị mà Diệm luôn nghi ngại.

Năm 1951, Thiệu cưới vợ, bà Nguyễn Thị Mai Anh, con gái một gia đình Công giáo toàn tòng ở Mỹ Tho, Tiền Giang. Do đó, năm 1957, Nguyễn Văn Thiệu được rửa tội và trở thành tín đồ Thiên Chúa giáo. Mai mối cho cuộc hôn nhân là Đặng Văn Quang, một người bạn đồng ngũ. Bà Mai Anh là cháu họ của Đặng Văn Quang. Khi Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng thống, Đặng Văn Quang đeo lon trung tướng, được Thiệu mời làm Cố vấn Tổng thống về quân sự, Phụ tá An ninh và Tình báo Quốc gia, Tổng thư ký Hội đồng An ninh Quốc gia, trở thành người có quyền lực hàng thứ 4 trong hàng ngũ quyền lực cao nhất ở miền Nam.

Nguyễn Văn Thiệu quả thật rất có khiếu ngoại ngữ. Thời đi học, vốn tiếng Pháp của ông không tồi. Tiếng Anh, ông ta chỉ học qua các phụ tá của mình, không theo lớp nhưng rất giỏi. Trong hồi ký “Từ Tòa Bạch Ốc đến Dinh Độc lập”, tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng có đề cập đến chuyện ngày 8/6/1969, trong cuộc gặp thượng đỉnh với Tổng thống Mỹ R. Nixon tại đảo Midway ở Thái Bình Dương để bàn về vấn đề Việt Nam hóa chiến tranh, Nguyễn Văn Thiệu đã tranh luận trực tiếp bằng tiếng Anh trong 8 giờ liền mà không cần phiên dịch.

Riêng về chuyện “háo sắc nhưng rất kín đáo để che giấu tình cảm” của ông thì trước năm 1975, báo chí đối lập đã phanh phui khá nhiều, với người dân miền Nam thời đó đã không còn là chuyện lạ. Ngoài ra, ông còn là người có năng khiếu văn nghệ, từng tham gia thủ trống biểu diễn trong một cuộc giao lưu với Hướng đạo sinh tại Suối Tiên vào năm 1972…

Tuy nhiên, Đại tá Đỗ Mậu, nguyên Giám đốc Nha An ninh Quân đội thì luôn tin rằng Nguyễn Văn Thiệu sinh vào nửa đêm (giờ Tý) ngày 24/12/1924, tức ngày 28/11 âm lịch, nhằm vào ngày Đinh Sửu, tháng Bính Tý của năm Giáp Tý. Đỗ Mậu là người rất am tường khoa “Tử vi đẩu số”. Theo ông, Nguyễn Văn Thiệu không chỉ “trùng tam Tý” mà còn “trùng tứ Tý”. Trong hồi ký “Việt Nam máu lửa quê hương tôi” (được in trong nước dưới tựa “Tâm sự tướng lưu vong” – NXB Công an nhân dân 1994), ông viết: “Thiệu sinh tuổi Giáp Tý (1924), sinh vào giờ Tý (nửa đêm), tháng Tý (tháng 11 Âm lịch) và cung Mệnh Viên cũng nằm ở Tý.

Lại nữa, mệnh của Thiệu là mệnh Kim mà lại nằm vào cung Thủy là đắc cách. Năm 1965, khi Thiệu đúng 41 tuổi đi vào cung Thổ, mà Thổ lại sinh Kim, lại gặp Khoa, Quyền, Lộc, Binh, Hình, Tướng, Ấn hội chiếu là thượng cách, vì thế Thiệu giữ chức Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, rồi sau đó lên chức Tổng thống. Vì cung Phúc Đức là gốc của lá số cho nên tuy hết làm Tổng thống mà Thiệu vẫn được thụ hưởng giàu sang, an nhàn cho đến năm 1985, nghĩa là vào hạn Chính Hòa ở cung Ngọ”.

Khi nhóm tướng lĩnh âm mưu đảo chính anh em Ngô Đình Diệm, Sư đoàn 5 do Thiệu chỉ huy vẫn đóng ở Biên Hòa. Khi có sự cố, đó chính là đơn vị có thể điều quân cơ động, nhanh chóng nhất về sài Gòn, cho dù là để tấn công hay phòng thủ, giải vây. Nhóm tướng lĩnh đảo chính đã tìm đủ cách để lôi kéo Nguyễn Văn Thiệu tham gia vào âm mưu, chí ít cũng là án binh bất động không can thiệp, để đề phòng bất trắc. Đại tá Đỗ Mậu, một trong những “công trình sư” chủ chốt của âm mưu đảo chính anh em Diệm – Nhu đã trực tiếp đứng ra lo liệu việc lôi kéo Nguyễn Văn Thiệu.

Biết viên tư lệnh trẻ là người nặng đầu óc mê tín, rất tin vào tướng số, Đỗ Mậu đã đút tiền cho thầy chiêm tinh Huỳnh Liên trên đường Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần), người được mệnh danh là Quỷ Cốc tiên sinh để tay này “vẽ bùa” Nguyễn Văn Thiệu, do chính Đỗ Mậu dắt tới. Quỷ Cốc tại thế phán: “Thầy cầm tinh Giáp Tý, năm Quý Mão (1963) tất gặp chông gai. Thầy phải đích thân đứng ra đẩy bật tảng đá chắn đường mình đi, nếu không thì mạng vận của thầy sẽ bị tảng đá này đè nát”.

Thiệu tin sái cổ. Quỷ Cốc tiên sinh còn phán thêm: “Số phần đã vạch, thầy chớ có nhị tâm mà rước họa vào thân, chết không toàn mạng”. Theo yêu cầu của thầy tướng số – mà kỳ thực là yêu cầu của chính Đỗ Mậu – Nguyễn Văn Thiệu đã líu ríu thề độc sẽ theo phe đảo chính, chính thức ký tên vào danh sách những kẻ sẽ nhúng tay vào máu anh em Ngô Đình Diệm.

Một nguồn thông tin khác lại cho rằng, tuổi “Tý trùng” của Nguyễn Văn Thiệu hoàn toàn là bịp bợm. Người ngụy tạo ra nó là một bác sĩ, nhân viên tình báo thời đệ nhất Cộng hòa tên là Trần Đại Sỹ, ông này từng sắm vai ký giả, ký bút danh Trần Hoàng Quân, từng là trưởng nhóm nghiên cứu Tử Vi Đông A. Việc ngụy tạo được tiến hành theo đơn đặt hàng của dược sĩ Nguyễn Cao Thăng trước khi đảo chính anh em Diệm nổ ra.

Sau này, sống lưu vong tại Pháp, ông Trần Đại Sỹ có xuất bản cuốn “Tử Vi cho tuổi Tý”, không tiếc lời mạt sát lá số thật của Nguyễn Văn Thiệu. Ông ta cũng xin lỗi các “cao thủ” khác trong nghề “xủ quẻ” và thú nhận thời trẻ nông nổi, ham danh lợi nên ông ta đã làm bậy, nhắm mắt chấm cho Nguyễn Văn Thiệu một lá số có mạng đế vương!

Điều kỳ lạ là sau này, Nguyễn Văn Thiệu lại tuyệt đối tin rằng ông ta có chân mạng “tứ Tý quý trùng”, nhất nhất xây dựng cơ đồ quyền lực trên nền tảng của một trò bịp bợm!

Những kẻ từng ca tụng Nguyễn Văn Thiệu lên mây như một Tổng thống chống Cộng khét tiếng chắc sẽ bật ngửa khi biết xuất phát điểm, gia đình Thiệu lại có cảm tình và từng… ủng hộ Cộng Sản.

Người từng nêu ra và xác nhận quan điểm này là ông Nguyễn Văn Hoàng, tức nhà tình báo lỗi lạc Hoàng Đạo, người nổi tiếng với chiến công tình báo nổ mìn phá hỏng Thông báo hạm Amyot d’Inville của Pháp trên biển Sầm Sơn, Thanh Hóa (1950). Cuối năm 1933, ông Nguyễn Văn Hoàng đã được Đảng Cộng sản cử từ depot xe lửa Dĩ An ra depot xe lửa Tháp Chàm chỉ huy phong trào đình công của công nhân đường sắt. Mật thám Pháp chờ sẵn, bắt Nguyễn Văn Hoàng tại depot Tháp Chàm và đưa lên giam giữ tại nhà thương Phan Rang, định từ đó đưa về Sài Gòn xét xử.

Cuộc biểu tình của công nhân đường sắt đòi thả Nguyễn Văn Hoàng đã được quần chúng nhân dân nhiều ngành nghề khác ủng hộ, biến thành một cuộc đấu tranh lớn. Mật thám nhượng bộ, phải thả, Nguyễn Văn Hoàng được hàng ngàn dân chúng hộ tống, đã quay lại Tháp Chàm tổ chức một cuộc diễn thuyết hô hào đấu tranh tại cầu Bảo, ngay trước Biệt điện Bảo Đại.

Trong số các nhân sĩ, trí thức các tổng An Sơn, Ninh Hải, An Phước (tỉnh Ninh Thuận) đến dự có ông Nguyễn Văn Chung, cha của Nguyễn Văn Thiệu. Khi đi nghe diễn thuyết, ông Chung có cõng theo cậu con trai Nguyễn Văn Thiệu, lúc đó mới 10 tuổi.

Lương thực dự trữ cho công nhân đấu tranh cạn dần, ông chủ hãng buôn Hiệp Thạnh Võ Văn Vi ở Phan Rang và ông Nguyễn Văn Chung ở Tri Thủy đã tặng cho công nhân đấu tranh một số tiền đủ mua 600 kg gạo. Cô chủ nhà máy xay Cầu Bảo cũng “học tập”, không những không lấy tiền xay xát mà còn góp thêm cho anh em công nhân một số gạo để cho tròn 1 tấn.

Một người anh ruột của Nguyễn Văn Thiệu là Giáo sư Nguyễn Văn Kiểu (sau này làm Đại sứ VNCH tại Đài Loan), khi còn dạy học tại khu vực chợ Bàn Cờ cũng thường xuyên tham gia phong trào đấu tranh, bãi thị, bãi khóa và biểu tình của sinh viên – học sinh nhằm đuổi tàu chiến Mỹ ra khỏi cảng Sài Gòn (1-1950).

Riêng Nguyễn Văn Thiệu, ngay từ bé đã tỏ ra là một người đa nghi, thận trọng. Năm 1949, Thiệu trở thành một sĩ quan trong quân đội Liên hiệp Pháp, chống lại Việt Minh, đứng hẳn sang bên kia chiến tuyến với những người Cộng sản. Chọn quan lộ, Thiệu đã rời bỏ truyền thống và khuynh hướng của gia đình.

Cựu Đại tướng VNCH Cao Văn Viên từng nhận xét: “Ông Thiệu có phẩm chất của một mưu sĩ”. Nghĩa là ông ta thức thời, biết nắm bắt và khai thác cơ hội để thăng tiến nhanh, vì thế Nguyễn Văn Thiệu đã phải vứt bỏ yếu tố đạo đức sang một bên.

Chọn Nguyễn Văn Thiệu để trao chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 5, chứng tỏ Ngô Đình Diệm rất tin cậy và ưu ái đối với viên sĩ quan trẻ tuổi này. Đáp lại ân sủng, ngày 1/11/1963, Nguyễn Văn Thiệu đã đưa Sư đoàn 5… bao vây và tấn công Dinh Gia Long để buộc anh em Ngô Đình Diệm – Ngô Đình Nhu phải đầu hàng. Sau này, Thiệu lấp liếm rằng ông ta chỉ ra lệnh bắn vào Dinh Gia Long khi đã biết chắc Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu đã thoát ra ngoài!

Nguyễn Văn Thiệu và Kissinger tại Dinh Độc Lập.

Sau đảo chính, Thiệu được phong hàm Thiếu tướng. Chỉ hơn một năm sau, năm 1965, Thiệu lại được gắn lon Trung tướng. Nhờ có sự hậu thuẫn của nhóm tướng trẻ, Thiệu đã được bầu làm Chủ tịch Hội đồng lãnh đạo Quốc gia, trở thành Quốc trưởng của miền Nam. Trên cương vị này, ngày 31/10/1966, Nguyễn Văn Thiệu đã đứng chủ tọa, cắt băng khánh thành Dinh Độc Lập. Nguyên thủy, nó là Dinh Norodom, bị 2 phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc lái 2 máy bay AD6 ném bom đánh sập vào ngày 27/2/1962.

Đầu tháng 7/1962, Ngô Đình Diệm quyết định xây dựng lại dinh còn bản thân ông và gia đình người em Ngô Đình Nhu thì dọn sang sống tạm bên Dinh Gia Long (nay là Bảo tàng Tp HCM). Ngô Đình Diệm đã không bao giờ còn cơ hội quay lại chốn quyền lực cũ.

Ám ảnh về sự trả thù và lo sợ bị đảo chính, Nguyễn Văn Thiệu đã hai lần tổ chức cầu siêu theo nghi lễ Thiên Chúa giáo cho anh em cố Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Vẫn chưa yên, năm 1967, ông ta lại cho triệu một thầy địa lý người Hoa vào Dinh Độc Lập yểm bùa. Thầy phán: “Dinh được xây trên long mạch, trấn ngay vị trí đầu rồng. Đuôi rồng nằm cách đó non 1km, rơi vào vị trí Công trường Chiến Sĩ. Cần phải dùng một con rùa lớn yểm đuôi rồng lại, sự nghiệp của Tổng thống mới mong bền vững”.

Nguyễn Văn Thiệu tin theo, cho xây hồ nước tại công trường thành hình bát giác, từ trên cao nhìn xuống giống hệt ô bát giác trên mai rùa. Vị trí của hồ được đặt ngay chính vị trí cửa Khảm Khuyết của thành Gia Định xưa (còn gọi là thành Bát quái hay thành Qui). Giữa trung tâm hồ nước là một đài tưởng niệm, trên có đúc một con rùa lớn bằng kim loại đội bia ở trên lưng và một cột cao có hình cánh hoa xòe ở phía trên, xem như một chiếc đinh đóng xuống giữa hồ để ghim đuôi rồng lại! Năm 1972, Công trường Chiến sĩ được đổi tên thành Công trường Quốc tế, dân Sài Gòn vẫn quen gọi đó là hồ Con Rùa.

Bày trò bầu cử độc diễn, ngày 6/3/1971, Thiệu tuyên bố tái đắc cử ghế Tổng thống với tỉ lệ 94,36% số phiếu và được Tối cao Pháp viện Sài Gòn công nhận kết quả vào ngày 22/10/1971. Để tạ ơn, Thiệu đã đưa gia đình về quê thắp hương mộ tổ. Ông cho gom mồ mả của dòng họ cải táng về một nghĩa trang lập riêng sau Trường tiểu học Dư Khánh và lệnh cho tỉnh trưởng Ninh Thuận phải thường xuyên cắt hai lính bảo an ôm súng đứng gác.

Ông cũng cho sửa sang lại Trùng Sơn tự trên đỉnh núi và Văn Thánh miếu ở lưng chừng núi Đá Chồng nằm giữa hai xã Khánh Hải và Văn Hải. Trùng Sơn tự là nơi mẹ của Tổng thống chọn làm nơi quy y cửa Phật lúc xế chiều. Còn Văn Thánh miếu, đó là nơi thờ tự, lễ lạt của những thành viên Hội Khổng học Ninh Thuận. Ông muốn chứng tỏ, dù đã cải sang đạo Thiên Chúa, mang tên Thánh Martino Nguyễn Văn Thiệu, ông vẫn chưa hề quên truyền thống Nho học của gia đình.

Từ trái sang phải: Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Lương, Tống thống Nguyễn Văn Thiệu và Thủ tướng Trần Thiện Khiêm.

Mục đích chính, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu muốn đưa thầy địa lý theo chấm, trấn, yểm long mạch trên núi Đá Chồng, nhằm bảo vệ sự vững bền cho ngôi vị Tổng thống. Chóp phía bắc ngọn núi Đá Chồng có một tảng đá rất lớn, hình lưỡi dao, gọi là Hòn Đá Dao, được thầy phán là vật “yểm mệnh” của Tổng thống. Ngọn Đá Dao đứng chênh vênh nhìn về phía đông bắc, hướng thôn Dư Khánh, quê Thiệu. Ngay trước mặt nó còn có 3 tảng đá lớn chồng lên nhau, dân gian gọi là tảng đá Mặt Quỷ.

Để “ém” long mạch ngay phía trước mặt hai tảng Đá Dao và Mặt Quỷ, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho tỉnh trưởng tỉnh Ninh Thuận điều một trung đội Công binh gấp rút xây lại Văn Thánh miếu thành 3 ngôi nhà lớn tạo hình chữ Công (I), án chóp phía bắc núi Đá Chồng, sau đó làm gấp một con đường trải nhựa chạy thành hình vòng cung từ dưới tỉnh lộ lên đến Văn Thánh miếu. Công trình hoàn tất, một trung đội Biệt động quân đã được điều về để ngày đêm bảo vệ.

Âm dương bài bố đầy đủ, Nguyễn Văn Thiệu yên tâm, hứng khởi và tin tưởng đến mức gửi trọn tiền đồ quốc gia cho những phán truyền sấp ngửa. Đầu xuân năm 1972, theo lệnh của Nguyễn Văn Thiệu, Đại tá Trần Văn Lâm Giám đốc Việt Tấn xã đã long trọng mời 3 ông thầy Huỳnh Liên, Minh Nguyệt và Khánh Sơn – lên đài truyền hình nói trước dân chúng về vận mạng quốc gia. Cả 3 thầy đều thao thao bất tuyệt về “một nền hòa bình vĩnh cửu đang đến rất gần”, về “quốc gia may mắn có một vị tổng thống anh minh và sáng suốt, có chân mạng đế vương tất sẽ lãnh đạo binh sĩ và dân chúng giành thắng lợi tuyệt đối trước Cộng sản”.

Đầu năm 1975, Quân Giải phóng đã đánh chiếm Phước Long, “Giáp Tý Kị Ất Mão” như lời thầy tử vi phán cho đời Thiệu bắt đầu. Nhưng trên mặt báo vẫn còn có những kẻ xu nịnh ca tụng “quý số” và tài năng của ông Thiệu hết lời, đại loại như: “Người lãnh tụ phải biết trị quốc. Cụ Ngô Đình Diệm cầm quyền 9 năm bị 2 lần đảo chánh, vậy không biết trị quốc và quá tin người nên chết thảm. Đại tướng Dương Văn Minh cầm quyền 3 tháng bị 1 lần đảo chánh, vì không biết trị quốc nên thân bại danh liệt. Nguyễn Khánh cầm quyền 13 tháng, Phan Huy Quát 5 tháng, Nguyễn Cao Kỳ 2 năm, tất cả đều bị lật đổ, vậy không biết trị quốc nên sự nghiệp tiêu tùng. Riêng ông Nguyễn Văn Thiệu cầm quyền 10 năm không một lần đảo chánh, vậy là người biết trị quốc – xứng danh là lãnh tụ” (!)

Đùng một phát, từ lưng chừng núi, ngọn Đá Dao – linh vật giữ vận mạng đời Thiệu như lời thầy phán bị vỡ đôi lăn lông lốc xuống, đánh vỡ ba hòn đá Mặt Quỷ và lăn xuống chân núi giữa một chiều không mưa, trời quang mây tạnh…

Đại tá Võ Thứ, hiện nay là Trưởng Công an TP Phan Rang – Tháp Chàm, Ninh Thuận thuật lại: Tiết Kinh trập (sâu nở) mùa xuân năm 1975, toàn vùng Văn Sơn, Bình Sơn, Khánh Hải, Ninh Chữ đột nhiên xảy ra một trận thiên địch lớn chưa từng thấy. Hàng đàn sâu các loại xuất hiện dày đặc, quét hết đợt này, đợt khác lại xuất hiện. Tại núi Đá Chồng, trong các hốc đá của hòn Đá Dao bị vỡ, sâu và bọ hung cũng xuất hiện lũ lượt. Chúng túa ra, bò hàng đàn qua lộ và nối nhau mất hút ra phía biển. Dân chúng kháo nhau: vận ông Thiệu đã hết.

Ngày 2/4/1975, Nha Trang giải phóng. Các sắc lính VNCH cuống cuồng kéo nhau theo Quốc lộ 1 chạy về phía Phan Rang. Theo đề xuất của tướng Feredrich C.Weyand – Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, đến Sài Gòn ngày 28/3/1975, Nguyễn Văn Thiệu quyết định lập phòng tuyến Phan Rang để chặn bước tiến của Quân Giải phóng. Thiệu ra lệnh sáp nhập 2 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận của Quân khu II vào Quân khu III, lập Bộ Tư lệnh tiền phương Quân đoàn III, cử Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi làm Tư lệnh, đại bản doanh đặt tại Sân bay Thành Sơn, Phan Rang. Trên khắp mặt trận mới mở thuộc hai tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận, Thiệu đã ném vào canh bạc cuối cùng hơn 75.000 quân các loại.

Nhưng chỉ hai tuần sau đó, sức tiến công vũ bão của Quân Giải phóng đã đập nát tuyến phòng thủ Phan Rang, bắt sống 1.665 binh sĩ VNCH, 11 xe tăng, thiết giáp và 51 máy bay nguyên vẹn. Ngày 16/4/1975, tại xóm Dừa, phường Đô Vinh (Tháp Chàm) Bộ Tư lệnh tiền phương của Quân đoàn III VNCH gồm Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang và toàn bộ sĩ quan tùy tùng đã bị bắt gọn trên 3 chiếc xe bọc thép. Trước đó, ngày 13/4/1975, trung đội lính bảo vệ núi Đá Chồng đã bắn chết người cai quản Văn Thánh miếu, rồi xô vào đập nát các bệ thờ, cạy cả mái ngói để “tìm vàng ông Thiệu giấu”.

Ngày 21/4/1975, Nguyễn Văn Thiệu đã phải ngậm ngùi lên đài đọc lời từ chức, thú nhận sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn và chính bản thân ông ta, để rồi sau đó chạy ra nước ngoài sống hết những năm còn lại trong kiếp lưu vong không Tổ quốc.

Thầy số Huỳnh Liên – nhân vật nắm chặt tử vi của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu số phận còn bi thảm hơn. Không chỉ đoán sai bét vận mệnh “quý tướng” của ngài Tổng thống, ông thầy “đại tài” còn mù tịt, chẳng đoán được tí gì về số phận của chính bản thân. Quân giải phóng làm chủ Sài Gòn, thầy đoán không ra nên không kịp di tản để tháo thân. Ở lại không lâu, nhâm cầm độn toán trật lất, thầy rước hai gã thợ điện về sửa nhà (ở Sông Bé) mà không hay đó là hai thằng kẻ cướp giả dạng. Thánh không vật tội một đời bịp bợm, nhưng thầy lại bị hai thằng cướp đè ra siết cổ bằng dây điện cho đến khi lè lưỡi chết thẳng cổ ngay giữa ban ngày!

N.H.L.

cand.com.vn

Từ Mỹ Lai đến nhà tù Abu Ghraib

Tháng Tư 25, 2011 Bình luận đã bị tắt

Seymour Hersh - nhà báo luôn làm điên đầu giới chức Mỹ.

Seymour Hersh luôn gây chấn động bởi ông thường nói ra câu chuyện mà ít người Mỹ muốn biết hoặc muốn chối bỏ. Đối với ông, “vạch trần và tố cáo” là nhiệm vụ cao cả của những người làm báo chân chính. Sau sự kiện Mỹ Lai ở Việt Nam của quân đội Mỹ bị phanh phui, liên tiếp những bê bối và âm mưu đen tối của quân đội và chính quyền Mỹ cũng như các nước khác đã bị Hersh lôi ra ánh sáng.

Hơn 50 năm cống hiến cho sự nghiệp báo chí, hàng loạt phóng sự điều tra của Seymour Hersh không biết bao lần làm điên đầu những nhà cầm quyền Mỹ. Đặc biệt năm 2004, Hersh làm cả thế giới một lần nữa lại phải rùng mình khi chứng kiến lính Mỹ tra tấn tù binh Iraq tại nhà tù Abu Ghraib.

Loạt 3 bài phóng sự điều tra của Seymour Hersh trên tạp chí “Người New York” mô tả chi tiết cùng những bức ảnh ghê rợn cảnh những tù nhân bị tra tấn dã man trong nhà tù này một lần nữa khiến Hersh trở thành tâm điểm thu hút sự chú ý và phản ứng trái ngược của chính giới cũng như công luận. Cũng như với sự kiện vụ thảm sát ở Mỹ Lai, Hersh xứng đáng với sự khen ngợi vì lòng dũng cảm về đạo đức nghề nghiệp bởi trong khi các nhà báo khác lảng tránh sự thật thì Hersh dám chấp nhận đối mặt với những bí mật đen tối nhất và nguy cơ phải đối đầu với chính quyền.

Kinh hoàng từ nhà tù Abu Ghraib

Nằm cách thủ đô Baghdad, Iraq khoảng 32 km về phía tây, Abu Ghraib từng được coi là một trong những nhà tù “khét tiếng” nhất thế giới.

Được xây dựng vào những năm 1960, Abu Ghraib có 5 khu giam giữ tách biệt, mỗi khu có tháp canh và tường cao bao quanh. Khu giam giữ tù nhân chính trị tại Abu Ghraib được phân chia thành 2 phần: khu “mở” và khu “đóng”. Những phòng tại khu “đóng” được dùng để giam giữ tù nhân dòng Shiite và tại đây không cho phép người nhà tù nhân vào thăm. Trong khi đó khu “mở” giam giữ các tù nhân kể cả bị tình nghi và thực sự phạm tội. Đã có thời gian người ta tống khoảng 50.000 tù nhân cả đàn ông và phụ nữ vào nhà tù này, giam giữ họ trong những gian phòng chỉ rộng khoảng 3,5m2. Thời kỳ Saddam Husein, quản lý nhà tù Abu Ghraib là Saddam Kamal cũng là người đứng đầu Cơ quan an ninh đặc biệt Iraq, từng ra lệnh tra tấn và hành quyết nhiều tù chính trị.

Sau khi chế độ Saddam sụp đổ, khu nhà tù rộng lớn này bị bỏ hoang. Những gì có thể tháo dỡ được tại đây như cửa ra vào, cửa sổ và kể cả gạch đều bị người ta mang đi. Liên quân do Mỹ lãnh đạo đã cho sửa chữa và dọn dẹp tất cả các phòng giam, toilet, vòi tắm và xây thêm một khu y tế mới tại nhà tù. Abu Ghraib đã thực sự trở thành một nhà tù của quân đội Mỹ. Tuy nhiên, hầu hết các phạm nhân tại đây đều là dân thường, thậm chí nhiều người trong số họ bị bắt trong những đợt càn quét “chớp nhoáng” của quân đội và cảnh sát. Tù nhân tại Abu Ghraib chia thành 3 nhóm: tội phạm thông thường; nghi phạm gây ra các vụ tấn công nhằm vào liên quân; và một số ít các phần tử “lãnh đạo” lực lượng nổi dậy.

Trên thực tế, rất nhiều trong số hơn 4.000 tù nhân bị giam giữ tại nhà tù Abu Ghraib là những người vô tội. Họ bị bắt giữ mà không hề được xét xử, và một số có thể được trả tự do trong vòng 3 tháng kèm theo chút tiền tiêu tạm khi ra tù. Còn lại nhiều người khác bị buộc tội nổi dậy thì sẽ bị giam giữ lâu hơn. Những người này phải trải qua quá trình thẩm vấn, tra tấn và thậm chí bị làm nhục.

Theo Hashem Muhsen, một tù nhân Arập từng bị bắt giữ kể lại thì: “Họ bắt chúng tôi bò xung quanh sàn nhà, trên người không một mảnh vải và cưỡi lên lưng chúng tôi như thể chúng tôi là lừa”. Chính Muhsen là một trong những tù nhân bị buộc phải cởi quần áo và tham gia nhóm xếp hình Kim tự tháp trong bức ảnh đã được chương trình CBS 60\’ công bố. Đó không phải là sự lạm dụng mà là tra tấn! Những người bị tình nghi bị lột trần truồng, nằm lăn lóc trên nền nhà ướt át, với đôi tay bị còng, và những tên thẩm vấn liên tiếp đá tới tấp vào bụng họ.

Những cảnh lính Mỹ tra tấn dã man tù nhân tại nhà tù Abu Ghraib được công bố năm 2003.

Sau này, trong báo cáo của Thiếu tướng Antonio Taguba về sai phạm ở nhà tù Abu Ghraib đã phải thừa nhận lính Mỹ đã dùng những biện pháp tra tấn ghê rợn như: dùng súng đã lên đạn đe dọa tù nhân; dùng nước lạnh đổ lên người tù nhân không mảnh vải che thân; dùng chổi và ghế đánh tù nhân; đe dọa cưỡng hiếp tù nhân nam; ép buộc tù nhân thực hiện các tư thế sinh hoạt tình dục để chụp ảnh; bắt tù nhân trần truồng nằm chất đống và giẫm đạp lên…

Nước Mỹ đối mặt với sự thật

Khi những thông tin và hình ảnh kinh hoàng từ nhà tù Abu Ghraib phổ biến khắp các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là trên truyền hình thì làn sóng phẫn nộ của công chúng cũng bùng lên mạnh mẽ, đặc biệt là tại Iraq. Những gia đình có thân nhân bị cầm tù vô cùng lo lắng về số phận của con em họ. Hàng loạt cuộc biểu tình đã diễn ra nhằm yêu cầu quân đội Mỹ trả tự do cho các tù nhân.

Sự phẫn nộ của dư luận đã khiến giới chức Mỹ cuống cuồng biện minh. Đổ lỗi cho cấp dưới và cho rằng đó chỉ là vài “con sâu làm rầu nồi canh”, nhà cầm quyền Mỹ muốn lấp liếm và xoa dịu bớt dư luận. Lý do mà họ đưa ra đầu tiên là lượng tù nhân ở Abu Ghraib “quá tải” trong khi số lượng quản giáo thuộc Lữ đoàn Quân cảnh không đủ so với “nhu cầu” và “chính sự thiếu cân bằng này đã dẫn tới điều kiện sống kém chất lượng, những vụ trốn tù và thiếu trách nhiệm giải trình”.

Tuy nhiên, Hersh khẳng định đây là kết quả của một quyết định về chương trình thẩm vấn lấy cung đặc biệt bí mật được CIA tiến hành tại các nhà tù ở Afghanistan và Guantanamo, và đã được áp dụng ở Iraq với sự đồng ý trực tiếp của Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld. Đương nhiên, Lầu Năm Góc đã bác bỏ cáo buộc trên và tuyên bố điều đó hoàn toàn kỳ quặc, không đúng sự thực và không đủ chứng cứ. Nhưng cho dù thế nào, chuyện lính Mỹ ngược đãi tù nhân tại nhà tù này là không thể phủ nhận. Thủ phạm trực tiếp của vụ việc đã bị đưa ra trước vành móng ngựa và lĩnh án tù.

“Vạch trần” và “Tố cáo”

Giữa khoảng thời gian từ “sự kiện Mỹ Lai” đến khi vạch trần việc lính Mỹ tra tấn tù nhân ở Abu Ghraib là hàng loạt những phát hiện quan trọng của phóng viên điều tra kỳ cựu Seymour Hersh. Năm 1972, Hersh là một trong những người chỉ trích Chính quyền Nixon gay gắt nhất về việc chính phủ Mỹ ủng hộ cuộc đảo chính của Pinochet ở Chile cũng như việc sử dụng CIA để bí mật theo dõi kẻ thù của kẻ độc tài.

Cuốn “The Price of Power: Kissinger in the Nixon White House” (Cái giá của quyền lực – Kissinger trong Nhà Trắng của Nixon) xuất bản năm 1983 đã được giới phê bình sách quốc gia trao giải thưởng và người ta cho rằng, nếu khi nào đó Henry Kissinger bị truy tố là tội phạm chiến tranh, thì dự thảo của bản cáo trạng sẽ là bản tóm tắt cuốn sách này.

Không chỉ dừng trong phạm vi nước Mỹ, Hersh còn sục sạo tới bất kỳ sự kiện nào, ở bất cứ đâu mà ông phát hiện được có dấu hiệu của mờ ám. Chính Hersh là người mang đến sự thật về vụ đắm tàu ngầm K-129 của Liên Xô ở Thái Bình Dương, hay sự kiện không quân Mỹ phá hủy nhà máy dược phẩm Al-Shifa của Sudan,… Tất cả những bí mật đã bị bóc trần lộ ra những âm mưu đen tối đằng sau chúng.

Bài phóng sự ngày 17/3/2003 của Hersh lật tẩy những quan hệ làm ăn không minh bạch của Richard Perle, Chủ tịch Ban Chính sách quốc phòng thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ, với Quỹ tư nhân quản lý đầu tư của Arập Xêút và với một công ty Anh chuyên bán phần mềm theo dõi cho FBI và CIA. Những phanh phui này đã khiến Perle buộc phải từ chức. Cũng năm 2003, chính Hersh đã tường thuật về đội đặc nhiệm 121 và một số đội khác từng dính líu đến các vụ giết hại dân thường ở những nước mà Mỹ chiếm đóng hoặc đóng quân.

Cứ thế, Hersh tiếp tục miệt mài như chú chuột trong những đường hào của làng báo, giao thiệp với những viên chức bậc trung “không tên tuổi” nhưng có nhiều khả năng biết rõ những sự thật đang được chôn vùi ở đâu. Hersh đơn thương độc mã sục sạo với tư cách một người ngoài vòng quyền lực và những thông tin của ông luôn làm giới cầm quyền mất ăn mất ngủ. Hersh luôn rành rọt với triết lý làm báo của mình: “Cách tôi thể hiện lòng trung thành của mình là đặt câu hỏi. Điều quan trọng nhất là giữ được sự đứng đắn và trung thực ở mức độ cao nhất có thể cho những người trong cơ quan công quyền. Và nếu chúng ta không làm điều đó thì có nghĩa chúng ta quên lời hứa trung thành. Do vậy, chúng ta cần lên tiếng ngay cả khi ai đó nhân danh quốc gia làm điều sai trái”.

Sau sự kiện Abu Ghraib tới nay, Hersh vẫn liên tục tung ra những bài báo gây chấn động. Năm 2003, qua điều tra độc lập, chính Hersh là nhà báo Mỹ duy nhất đã quả quyết đưa ra tuyên bố: “Chúng ta (Mỹ) sẽ không tìm thấy vũ khí giết người hàng loạt WMD ở Iraq”. Điều này sau đó 4 năm, ngày 5/6/2007 đã được chứng minh tại cuộc họp của Ủy ban Tình báo Thượng viện Mỹ.

Theo báo cáo của Ủy ban này, “không chứng cứ” về việc Baghdad sở hữu vũ khí giết người hàng loạt (WMD) cũng như không có bằng chứng nào xác nhận chính quyền Sadam Hussein có mối liên hệ với tổ chức khủng bố khét tiếng Al-Qaeda. Đó chỉ là những cớ để người đứng đầu tòa Bạch ốc là Tổng thống Bush và các quan chức cấp cao khác cố tình bưng bít thông tin tình báo, phát động cuộc chiến tranh xâm lược Iraq năm 2003 mà thôi.

Tháng 4/2007, trên tạp chí Người New York, Hersh lại tiết lộ việc Lầu Năm Góc đã cho thành lập một đội đặc nhiệm lên kế hoạch oanh tạc Iran khẩn cấp. Chỉ cần Tổng thống ra lệnh, Đội đặc nhiệm này có thể tấn công Iran trong vòng 24 giờ. 5 tháng sau, Hersh lại cho một đồng nghiệp ở Pháp biết thông tin được lọt ra từ Nhà Trắng rằng, kế hoạch tấn công Iran đã được quyết định. Ngay lập tức những thông tin này dấy nên làn sóng dư luận trên thế giới về khả năng Mỹ có thể tấn công Iran. Cho đến nay, rất nhiều những phân tích, bình luận, đánh giá của các chuyên gia chính trị quân sự sừng sỏ trên thế giới vẫn coi sự kiện này là tiêu điểm cần quan tâm và làm sáng tỏ.

Cũng theo Hersh, những cuộc tấn công trong năm 2008 chủ yếu là do lực lượng Delta Force và Hải cẩu tiến hành trong các chiến dịch quân sự làm số dân thường thiệt mạng tăng hơn 40% so với năm 2007. Tháng 12/2008, quân Mỹ tấn công vào một dinh thự ở tỉnh Khost nhằm bắt giữ một thủ lĩnh Al-Qaeda và đã giết nhiều dân thường, trong đó có một em bé 4 tuổi bị chó săn của lính Mỹ cắn chết. Nghiêm trọng nhất có lẽ là vụ xảy ra ngày 22/8/2008 tại một làng phía tây Afghanistan, đã có tới 90 dân thường bị lính Mỹ sát hại chứ không chỉ là con số vài người như lúc đầu phía Mỹ đưa ra.

Nhà báo Hersh nói rằng, ông không hề lừa dối công luận. Sự thật cần phải được tôn trọng và ông là một chiến sĩ bền bỉ đấu tranh cho điều đó. Tuy nhiên, ông cũng bày tỏ rằng, việc chỉ trích gay gắt giới lãnh đạo chính trị của chính đất nước mình cho cả thế giới nhìn nhận thực sự là một điều đau đớn. Dẫu vậy, sự lừa dối là không thể khoan nhượng. Và những người đứng đầu một đất nước, một dân tộc càng cần phải hành xử đúng như vậy

Ngọc Mai

cand.com.vn

Viên sĩ quan thủy quân lục chiến Mỹ cuối cùng ở Sài Gòn

Tháng Tư 18, 2011 Bình luận đã bị tắt

Ngồi trên nóc Tòa đại sứ, James Kean tự hỏi điều gì khiến anh và đồng đội rơi vào tình huống này. Họ trực tiếp làm nhiệm vụ sơ tán khẩn cấp nhưng lại chính là những người kẹt lại ở tòa đại sứ khi quân giải phóng tiến vào Sài Gòn.

James Kean.

Trưa thứ hai 28/4/1975, Sài Gòn rơi vào tình trạng hỗn loạn cực độ. James Kean, 33 tuổi, thiếu tá thủy quân lục chiến thuộc đơn vị bảo vệ các tòa đại sứ và lãnh sự Mỹ tại châu Á, được lệnh giúp Đại sứ Mỹ Graham Martin tại miền Nam Việt Nam thoát khỏi Sài Gòn. Tiếng súng, tiếng trọng pháo của Quân giải phóng vang lên khắp các cửa ngõ Sài Gòn, chính quyền Sài Gòn còn ban hành lệnh thiết quân luật. Quân giải phóng bắt đầu tấn công sân bay Tân Sơn Nhất, hai sĩ quan an ninh thủy quân lục chiến bỏ mạng. Trưa 29/4, Đại sứ Mỹ Martin điện về Washington, xin được sơ tán khẩn cấp…

Khoảng 43.500 người, trong đó có 5.000 người Mỹ, đã được sơ tán vào trước ngày 29/4. Đại sứ Martin lên truyền hình, thông báo rằng Chính phủ Mỹ sẵn sàng giúp bất cứ viên chức người Việt nào muốn sang Mỹ. Tuyên bố này khiến CIA điên lên bởi Martin đã hứa điều mà ông ta không thể thực hiện. Sáng sớm 29/4, hàng ngàn người Việt Nam ùn ùn kéo vào Tòa đại sứ Mỹ. Trong khi một số lính Mỹ có nhiệm vụ cản đường đám đông, vài lính Mỹ khác được phân công quan sát chọn người cần được ưu tiên. Một Hoa kiều đưa đứa bé con mình qua hàng rào, cùng túi kim cương hối lộ, nhưng bị từ chối.

Trong không khí hỗn độn và kinh hoàng, không ai còn tỉnh táo và trong khi nhiều người Việt bị từ chối thì một số người khác được giúp một cách khó hiểu. Một lính thủy quân lục chiến đã đích thân đánh xe chở một nhóm gái giang hồ ra sân bay và đưa họ lên chiếc máy bay C-141. Lúc 11 giờ, một lính thủy quân lục chiến đến đón bà đại sứ Martin và con chó lông xù Nit Noy tại tư dinh và đưa đến Tòa đại sứ đang được nhiều toán lính bảo vệ. Đầu giờ chiều, Martin ra lệnh một chiếc Limousine đưa mình đến tư dinh lấy vài vật dụng cá nhân và tài liệu mật. Đám người ngoài cổng Tòa đại sứ Mỹ dày đặc khiến Martin không thể ra bằng xe và cuối cùng phải quyết định đi bộ. Sau khi nhặt nhạnh một số giấy tờ cần thiết, Martin ra lệnh hủy các thiết bị liên lạc và hồ sơ cá nhân. Trong cơn hoảng loạn, Martin thậm chí còn cài quả lựu đạn lên chiếc dương cầm. Tại Tòa đại sứ, cây me già bị chặt để dọn chỗ cho bãi đáp trực thăng và trên nóc tòa đại sứ, chữ H to tướng được sơn gấp rút, làm điểm đáp trực thăng. Một toán lính Mỹ cùng nhân viên Bộ Ngoại giao đốt đống tiền khổng lồ với những tờ đôla mới cứng trị giá 4,7 triệu USD.

Khoảng sau 5 giờ chiều, một tốp trực thăng bắt đầu xuất hiện. Hàng chục người Việt được sơ tán. Nhiều vật dụng cá nhân bị bỏ lại dành chỗ cho người. Những người được ưu tiên trong đợt đầu là cánh phóng viên. Trời bắt đầu tối. Các xe hơi được quây lại thành hình bán nguyệt và bật đèn sáng soi bãi đáp cho trực thăng. Washington hối Martin rút lui nhưng ông xin đi muộn hơn. Cuộc di tản vẫn tiến hành và cứ 10 phút lại có một trực thăng hạ cánh xuống Tòa đại sứ. Thời điểm chót cho Martin là 11 giờ đêm và Martin xin nán lại thêm. Tổng thống Gerald Ford ra lệnh chỉ được thực hiện thêm 20 chuyến nữa.

Khoảng 3 giờ 30 phút sáng ngày 30/4, một chiếc CH-46 nhận tín hiệu: “Tiger, Tiger, Tiger!”, có nghĩa chuyến bay kế tiếp phải chở Martin. Thiếu tá James Kean – chỉ huy trưởng nhóm sơ tán – điện cho Trung tướng Richard Carey trên Hàng không mẫu hạm USS Blue Ridge thuộc Hạm đội 7 và nói rằng còn khoảng 400 người di tản quanh khuôn viên Tòa đại sứ. Carey yêu cầu chỉ sơ tán viên chức và lính thủy quân lục chiến Mỹ.

Đám đông người Việt tràn vào bên trong. Nhóm sơ tán viên chức Mỹ hối hả đổ vào thang máy, khóa bộ phận điều khiển chạy xuống và tung lựu đạn cay xuống các cầu thang bộ. Ở tầng trên cùng, có lối lên mái nhà, với cửa chống đạn, James Kean ra lệnh khóa cửa và chèn bằng thiết bị chữa lửa cùng nhiều vật nặng khác. Thủy quân lục chiến Stephen Bauer có nhiệm vụ đứng chặn. Mỗi lần có đám đông ùa đến phá cửa, Bauer tung qua khung cửa vỡ một quả lựu đạn cay. Lúc đó còn khoảng 11 lính Mỹ và họ không biết rằng ngay sau khi Đại sứ Martin lên trực thăng, Henry Kissinger đã tuyên bố trên truyền hình Mỹ rằng chiến dịch di tản đã kết thúc. Không trực thăng nào được phái đến và nhóm James Kean đợi chờ trong cơn tuyệt vọng…

Quá mệt mỏi sau hơn 70 tiếng làm việc, vài người trong nhóm ngủ vùi, một số người ngồi và nhìn xuống sự hỗn loạn kinh hoàng bên dưới khuôn viên Tòa đại sứ. Nhóm James Kean chờ, khi hàng đoàn xe tăng đối phương kéo vào Sài Gòn. Họ bắt đầu sợ. Khi mặt trời lên, đường phố Sài Gòn hỗn loạn đến đỉnh điểm. Một vài người Việt vẫn còn ôm hành lý ngồi trong bãi đỗ xe Tòa đại sứ. “Vài kẻ trong bọn chúng tôi bắt đầu khóc” – James Kean kể. Anh ta cảm thấy xấu hổ và nhục nhã.

Kean được Chính phủ Mỹ hứa nhiều thứ: anh sẽ được trở lại đại học sau khi chiến tranh kết thúc, được nhận tiền lương sau những ngày công tác tại Đà Nẵng, rằng anh được phái đến Việt Nam để giúp người dân nước này (Nam Việt Nam) quyết định số phận của họ. Và rồi khi đến, Kean nhận ra rằng 90% dân số ở đây đều là nông dân và họ không hề mong sự có mặt của người Mỹ. Ngồi trên nóc Tòa đại sứ, Kean tự hỏi điều gì khiến anh và đồng đội rơi vào tình huống này. “Đây là lần đầu tiên tôi nhận thức rằng nước Mỹ đang trốn chạy. Tôi không hiểu nổi. Tôi chưa bao giờ thua trong một trận giao tranh nhưng chúng tôi đã thất bại trong một cuộc chiến” – Kean nói.

Phía đông nam, một chiếc CH-46 bay đến. Lúc đó là 7 giờ 58 phút, giờ Sài Gòn – một tuần nữa là Việt Nam kỷ niệm lần thứ 21 Chiến thắng Điện Biên Phủ

Anh Vũ (theo MSNBC)

An ninh Thế giới