Cuộc đời gian truân của thân mẫu Tổng thống Obama

Tháng Mười Một 23, 2013 Bình luận đã bị tắt

Bà Stanley Ann Dunham thời trẻ.

Trong cuộc đời thân mẫu Tổng thống Mỹ Barack Obama có rất nhiều điều mà mọi người chưa từng biết đến. Ngay cả bản thân ông Obama, trong một lần tâm sự với một người bạn làm báo cũng thốt lên: “Khi tôi nghĩ về mẹ tôi, tôi thường không hiểu được bà ấy là người như thế nào, bà ấy tin tưởng vào điều gì? Tôi nghĩ cuộc đời bà ấy là không bao giờ ngơi nghỉ. Bà luôn luôn đi tìm cái gì đó, không bao giờ an phận ở yên một chỗ”.

Xem chi tiết…

Những sát thủ máu lạnh trên thế giới vẫn tiếp tục ra tay

Tháng Chín 17, 2011 Bình luận đã bị tắt

Hung thủ Robert Stewart và Seung-Hui Cho.

Ngày 30/6 2011, nhóm 7 thanh thiếu niên bị nã đạn khi đang đợi xe buýt tại một trạm ở thành phố Detroit, Mỹ. Ngày 22/7, vụ khủng bố kép đẫm máu cướp đi sinh mạng gần 100 người dân Na Uy giữa châu Âu thanh bình khiến cả thế giới chưa hết kinh hoàng.

Ngày 7/8, một tay súng đã bắn chết 7 người, trong đó có một đứa trẻ 11 tuổi, trước khi bị cảnh sát bắn hạ ở một thị trấn nhỏ của bang Ohio, Mỹ… Liên tiếp các vụ ra tay của những tên giết người máu lạnh trong 3 tháng qua, cũng như suốt những năm gần đây trên toàn thế giới, vẫn chưa hề có dấu hiệu chấm dứt. Hàng trăm, hàng ngàn sinh mạng những người vô tội trên toàn cầu đã bị cướp đi một cách oan nghiệt.

Phiên tòa xét xử Robert Stewart ngày 3/9 mới đây lại một lần nữa gióng lên hồi chuông báo động về tình trạng thảm sát dã man đang không ngừng gia tăng và những vấn đề nóng đặt ra như: đâu là căn nguyên sâu xa, những yếu tố tác động thúc đẩy và khả năng loại trừ loại tội phạm nguy hiểm này,… vẫn tiếp tục làm đau đầu công luận.

Liên tiếp những vụ thảm sát đẫm máu

Robert Stewart Kenneth, cúi đầu trước vành móng ngựa trong phiên tòa hôm 3/9/2011 xét xử kẻ gây ra vụ thảm sát kinh hoàng tại viện dưỡng lão ở Bắc Carolina, Mỹ cách đây hơn 2 năm. Với một loạt đạn lạnh lùng cướp đi sinh mạng của 7 cụ già và 1 y tá, Robert Stewart đã phải đối mặt với 8 tội danh, trong đó có tội danh “giết người cấp độ 2” và tội “chống người thi hành công vụ”. Rất may cho hắn, luật pháp nước Mỹ với khung hình phạt cho các tội này không chạm tới mức án tử hình.

Hội đồng thẩm phán đã thảo luận suốt trong hai ngày trước khi phán quyết đưa ra với Robert Stewart, một họa sĩ nay đã 47 tuổi tàn tật và là cựu binh Lực lượng Vệ binh quốc gia Hoa Kỳ. Ngay tại phiên xét xử, sự phẫn uất và nỗi xúc động của thân nhân người bị hại cũng như nhân chứng vẫn làm phiên tòa nóng như khi vụ việc mới xảy ra.

Hơn 2 năm trước, ngày 29/3/2009, Robert Stewart với cây súng trong tay đã bất ngờ xông vào một nhà dưỡng lão ở Bắc Carolina. Y đi vào từng căn phòng và nổ súng bắn vào mọi thứ. 7 cụ già tuổi đã hơn 80 ốm yếu, người đang nằm trên giường, người thì ngồi trên xe lăn cùng 1 y tá đã thiệt mạng. Robert Stewart cũng làm bị thương 3 người khác, trong đó có 1 cảnh sát, người đã đối đầu với hắn ở hành lang khu nhà điều dưỡng. Vụ việc có thể trở nên tồi tệ hơn nếu viên cảnh sát này không chặn được Stewart và con số nạn nhân khi đó không biết sẽ là bao nhiêu.

Theo điều tra thì không thấy dấu hiệu Stewart có quan hệ với bất kỳ nạn nhân nào. Vợ cũ của y tiết lộ, trước khi gây ra vụ thảm sát trên, Stewart đã liên hệ với một số thành viên trong gia đình cho họ biết mình bị ung thư và đang chuẩn bị một chuyến đi dài. Các điều tra viên không tìm ra mối liên hệ nào có thể giải thích tên này bỗng dưng nã súng vào những người già đáng thương nọ. Được biết, Nhà điều dưỡng Pinelake có 110 giường, trong đó những nạn nhân xấu số của kẻ cuồng sát Stewart là những người “gần đất xa trời”, bệnh tật, hoàn toàn không có thâm thù hay nguy hiểm gì với hắn. Và câu hỏi căn nguyên của tội ác dường như vẫn không thể làm sáng tỏ ngay khi thẩm phán luận tội y.

Một thảm kịch khác từng làm rung chuyển và bàng hoàng cả nước Mỹ khi các nạn nhân cũng vô cớ bị cướp đi sinh mạng. Người ta còn nhớ tháng 4/2007, nước Mỹ rúng động khi hung thủ người Hàn Quốc Seung-Hui Cho đã điên cuồng xả súng giết chết 32 người tại Trường đại học Công nghệ Virginia, sau đó tự sát. Đây là vụ thảm sát ở trường học đẫm máu nhất trong lịch sử hiện đại Mỹ. Thủ phạm đã thực hiện hai vụ tấn công cách nhau 2 giờ trước khi ban quản lý trường đại học này có thể hiểu chuyện gì đang xảy ra và cảnh báo đến sinh viên.

Hiện trường vụ thảm sát kinh hoàng ở Osld, Na Uy.

Cầm 2 khẩu súng và mang theo khá nhiều đạn, Cho bắt đầu xả súng lúc khoảng 7h15′ ở tầng 4 khu ký túc xá cao tầng dành cho sinh viên, sau đó tấn công Norris Hall, giảng đường nằm cách ký túc xá gần 1km. Hai người thiệt mạng trong phòng ngủ ký túc xá và 31 người khác bị giết ở Norris Hall, trong đó có cả Cho, do hắn tự bắn vào đầu. Ít nhất 15 người khác bị thương, một số trong tình trạng khá nguy kịch. Theo những sinh viên sống sót thì kẻ thủ ác mới 19 tuổi và gương mặt “khá đáng sợ nhưng cũng rất bình thản”, trông hắn cũng như các sinh viên bình thường khác trước khi bắt đầu nổ súng.

Trước vụ xả súng ngày 16/4/2007, vụ thảm sát bằng súng lớn nhất trong lịch sử hiện đại Mỹ là vụ ở Killeen, Texas, năm 1991 làm 23 người chết. Năm 1999 cũng xảy ra một vụ nổ súng kinh hoàng ở Trường Columbine High, tại đây 2 trẻ vị thành niên giết chết 12 bạn học và 1 giáo viên trước khi tự sát.

Còn rất nhiều, rất nhiều những vụ thảm sát đẫm máu đã và đang diễn ra trên thế giới. Có thể kể ra vài ví dụ điển hình. Tại xứ sở sương mù xảy ra một vụ thảm sát vào ngày 13/3/1996. Thomas Hamilton mang 2 khẩu súng lục 9mm và hai khẩu Magnum 357 đi vào Trường tiểu học Dunblane. Nạn nhân của hắn là 16 học sinh và 1 giáo viên. Chính sự kiện kinh hoàng này đã dẫn đến lệnh cấm sở hữu súng ngắn ở Anh.

Trường hợp khác là vụ một học sinh bị đuổi học mang mặt nạ đột nhập trường cũ ở thành phố Erfurt phía đông nước Đức vào ngày 26/4/2002. Tên này nổ súng vào các lớp, bắn chết 14 giáo viên, hai nữ sinh và một cảnh sát có mặt tại hiện trường. Sau đó, hắn tự kết liễu đời mình.

Truy tìm căn nguyên…

Rất nhiều người cho tới giờ vẫn lầm tưởng rằng, khái niệm “giết người hàng loạt” chỉ xuất hiện trong xã hội hiện đại. Quả thật, đúng là ta từng có cảm giác loại tội phạm này xuất hiện với cường độ cao từ nửa cuối thế kỷ XX, khi cùng với tác động lan truyền của các phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại, những tin tức về các vụ việc được lan nhanh, rộng và vô cùng chi tiết.

Tuy nhiên, theo các nhà tội phạm học trên thế giới, “giết người hàng loạt” là một hiện tượng đã có từ rất lâu. Kẻ sát nhân hàng loạt đầu tiên là một phụ nữ có tên Locusta, được phát hiện vào năm 69 sau Công nguyên. Còn kẻ sát nhân lần đầu được “định danh” tại châu Âu là Nam tước Gilles de Rais, người giàu nhất nước Pháp thời đó. Ông này đã bị đưa lên giàn thiêu năm 1440 vì đã giết chết hàng trăm đứa trẻ để tế lễ.

Có một thực tế không thể phủ nhận rằng, những sát thủ máu lạnh xuất hiện ngày một nhiều, manh động hơn, thủ đoạn tinh vi hơn và việc truy tìm căn nguyên, động cơ phạm tội, những yếu tố tác động, thúc đẩy và ngăn chặn loại tội phạm này càng khó khăn hơn. Trong nhiều vụ án giết người, cảnh sát đã bất lực không thể tìm ra manh mối. Tuy nhiên, hành vi phạm tội dù bí ẩn đến mấy cũng có quy luật. Cuối thập niên 90 thế kỷ XX, Nhóm Khoa học Hành vi thuộc Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) đã hệ thống hành vi phạm tội của dạng tội phạm này.

Theo họ, tội phạm bạo lực thường chia thành hai loại. Một là tội phạm hành động có kịch bản rõ ràng, kế hoạch thực hiện cụ thể và chi tiết. Hai là loại tội phạm hành động tùy hứng, nghĩ gì làm đó, không cần chuẩn bị trước. Thực tế, các chuyên gia tâm lý hình sự còn dùng một tên gọi riêng cho đối tượng thứ ba là tội phạm hỗn hợp.

Các chuyên gia cũng phân ra 3 loại sát nhân hàng loạt: Loại giết người tập thể (mass murderer) có đặc điểm là giết một lúc rất nhiều người (ít nhất là 4) tại cùng một khu vực. Loại giết người rải rác (spree killer) cũng giết rất nhiều người trong một khoảng thời gian tương đối ngắn nhưng ở những khu vực khác nhau. Nạn nhân của loại này là những người xấu số chẳng may lọt vào tầm ngắm khi kẻ thủ ác khai hỏa.

Vụ khủng bố kép ở Oslo, Na Uy vừa qua với gần 100 người chết là một ví dụ tổng hợp cho loại 1 và 2. Loại giết người hàng loạt (serial killer) với đặc điểm là giết người có chọn lọc chứ không bừa bãi như hai loại trên, và hành động trong khoảng thời gian dài từ nhiều tháng cho đến nhiều năm.

Một câu hỏi lớn đã từng được đặt ra: Vì sao lại có những kẻ giết người hàng loạt và hiện vẫn chưa có những lý giải thật đầy đủ và thỏa đáng về hiện tượng này.

Theo một nghiên cứu về tuổi vị thành niên của UNICEF gần đây cho thấy có 53% trẻ bị lạm dụng hay bỏ rơi khi còn bé có thể bị bắt khi vào tuổi vị thành niên, 38% dễ bị bắt khi thành người lớn và 30% dễ bị bắt vì các tội bạo lực. Điều này có thể cho thấy tuổi thơ và quá khứ của kẻ phạm tội đóng vai trò lớn trong việc hình thành nhân cách, tâm lý tội phạm sau này của chúng.

Nhiều tên sát nhân hàng loạt đã cho biết, khi còn bé họ đã bị bạn bè loại trừ, trêu chọc bởi những khiếm khuyết về mặt thể lý. Sự “cô lập” dần dần hình thành ở họ tâm lý ghét bỏ mọi người xung quanh, ghét bỏ thế giới. Bởi vậy, giết người như một cách thức trả thù lại thế giới. Nhìn chung, thương tổn cá nhân từ nền giáo dục của gia đình mà đứa trẻ đã phải gánh chịu là một trong những nguyên nhân chính yếu tạo nên những hành vi man rợ sau này của cá nhân khi đến tuổi trưởng thành.

Một trong các nguyên nhân lớn thúc đẩy kẻ phạm tội cần kể đến là sự tiếp cận quá dễ dàng các “phương tiện” giết người. Minh chứng là nước Mỹ, đất nước có nhiều tên sát nhân hàng loạt nhất thế giới bởi ở nước này không khó khăn mấy để có thể sở hữu được một loại vũ khí nào đó. Ngay ở những quốc gia có luật cấm tàng trữ và sử dụng vũ khí trái phép, nếu vũ khí cùng những phương tiện giết người khác như các loại độc dược, hay chất nổ,… thiếu sự quản lý chặt chẽ sẽ dẫn tới việc bọn tội phạm có thể có được phương tiện gây án một cách dễ dàng.

Ngoài ra, yếu tố tác động không nhỏ là ảnh hưởng của nền văn hóa bạo lực. Sự phản ánh thực tế cuộc sống trần trụi, thiếu chọn lọc và nhất là việc “thương mại hóa” những hành động bạo lực trên các phương tiện truyền thông, phim ảnh,… sẽ khiến những hành động bạo lực như được hợp thức hóa. Chúng sẽ dần ngấm sâu vào tiềm thức của cá nhân, và khi có điều kiện sẽ bộc phát một cách rất tự nhiên. Rất nhiều tên sát nhân hàng loạt ở Mỹ đã thú nhận rằng, họ đã bắt chước theo những nhân vật mà họ đã được xem trên màn ảnh.

… và chưa đủ thuyết phục

Tuy nhiên, những lý do chính trên không phải áp dụng cho tất cả. Trường hợp Anders Behring Breivik là một ví dụ phức tạp về truy tìm căn nguyên phạm tội. Sau khi đánh bom ở trung tâm thủ đô Oslo nhằm vào các cơ quan đầu não của chính phủ, Breivik xả súng trên đảo Utoeya cướp đi sinh mạng gần 100 người khiến vụ việc kinh hoàng có thể được coi là “vụ 11-9 của Na Uy”.

Điều này đã đặt ra một câu hỏi lớn: Vì sao? Vì sao mà bạo lực lại có thể xuất hiện ở một xứ sở văn minh, thanh bình và hoàn toàn cởi mở với các nền văn hóa, tôn giáo khác nhau như thế. Một xã hội an toàn mà đa phần những thông tin cá nhân của người dân cũng không cần bí mật. Chỉ cần mở các danh bạ trực tuyến là có thể tìm thấy những đường dẫn cung cấp cả ảnh chụp vệ tinh ngôi nhà và địa chỉ chính xác một người nào đó đang sống.

Rất dễ dàng ta có thể có chi tiết về địa chỉ email và nơi làm việc của bất kỳ ai. Đây cũng là đất nước mà các chính trị gia, những người nổi tiếng công khai số điện thoại và địa chỉ cá nhân ngay trên danh thiếp của mình, lương bổng và tài sản của họ cũng được cơ quan thuế công bố hằng năm trên các báo. Vậy mà tay súng tóc vàng người Na Uy vẫn tuyên bố: những hành động đẫm máu của mình là “kinh khủng nhưng cần thiết”.

Theo các chuyên gia bệnh học tâm thần thì có sự rối loạn tinh thần sâu sắc đằng sau tư tưởng cực hữu của Breivik. Nguyên nhân ban đầu được xác định của thảm kịch này cũng là do hận thù về chính trị. Với những ráp nối thu thập được, Breivik là kẻ mang tư tưởng cực hữu, bài ngoại, chống Hồi giáo và không chấp nhận một đất nước đa văn hóa. Y cho rằng một xã hội đa văn hóa đe dọa đến đặc tính sắc tộc của mình và cảm thấy bị xa lánh trong xã hội đó.

Cùng với quá trình toàn cầu hóa, vấn đề đặc tính dân tộc, chủ nghĩa đa văn hóa… có thể khuyến khích chủ nghĩa cực đoan. Vì thế, sự kiểm soát ngăn ngừa những dạng tội phạm bạo lực lại càng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết

Nguyễn Hải – Nguyên Linh

antg.cand.com.vn

Mỹ tìm cách ngăn cản sự ra đời một nhà nước Palestin

Tháng Chín 17, 2011 Bình luận đã bị tắt

Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu (trái), Tổng thống Mỹ Barack Obama (giữa) và Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas tại cuộc đàm phán hòa bình ở Washington tháng 6/2011.

Chính quyền Tổng thống Barack Obama muốn hủy bỏ cuộc biểu quyết tại Liên Hiệp Quốc (LHQ) về quy chế người Palestine. Theo The New York Times, Mỹ đang xúc tiến nối lại các cuộc đàm phán Trung Đông với hy vọng Chủ tịch Palestine Mahmoud Abbas sẽ không đưa ra trước Đại hội đồng LHQ ngày 20/9 việc biểu quyết vấn đề công nhận một nhà nước Palestine độc lập.

Cũng theo tờ báo, trong tháng qua, Bộ Ngoại giao Mỹ đã gửi thông điệp ngoại giao tới 70 quốc gia, kêu gọi họ không chấp nhận những bước tiến đơn phương của người Palestine tại LHQ.

Các nguồn tin LHQ cho biết, Mỹ đã dọa thực hiện các biện pháp trừng phạt Palestine nếu chính quyền này tiếp tục thúc đẩy các nỗ lực trở thành thành viên đầy đủ của LHQ. Tổng lãnh sự Mỹ tại Jerusalem, Daniel Rubinstein, nhân danh chính quyền Tổng thống đương nhiệm Barack Obama, đã cảnh báo nhà thương lượng hàng đầu của Palestine Saeb Erekat rằng, Mỹ sẽ ngừng mọi viện trợ tài chính cho Palestine nếu chính quyền này xúc tiến kế hoạch yêu cầu LHQ công nhận Palestine độc lập vào tháng 9 năm nay. Mỹ sẽ phủ quyết nghị quyết của Hội đồng Bảo an LHQ công nhận Nhà nước Palestine độc lập và là thành viên LHQ với đường biên giới được thừa nhận ngày 4/7/1967 gồm Bờ Tây, Dải Gaza và Đông Jerusalem.

Trong trường hợp Palestine tìm cách nâng quy chế quan sát viên hiện nay thành quy chế thành viên LHQ thông qua Đại hội đồng LHQ với đa số 2/3 thành viên LHQ ủng hộ, Quốc hội Mỹ sẽ thông qua các biện pháp trừng phạt kể cả cắt các viện trợ tài chính. Mỹ coi các nỗ lực độc lập và trở thành thành viên LHQ của Palestine là vô ích và nhấn mạnh điều tốt nhất đối với Palestine là ký hiệp định hòa bình với Israel thông qua đàm phán trực tiếp.

Cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Palestine để thành lập một nhà nước độc lập cùng tồn tại bên cạnh Nhà nước Do Thái kéo dài nhiều thập niên qua. Nhiều kế hoạch, nhiều cuộc đàm phán, nhiều thỏa thuận, giữa Israel với Palestine cùng sự tham gia của cộng đồng quốc tế nhưng cho đến nay vẫn chưa trở thành hiện thực. Một trong những nguyên nhân chính là Tel-Aviv không muốn trả lại các vùng đất của người Arập do họ chiếm đóng trái phép và không muốn người Palestine sinh sống trên lãnh thổ của mình.

Vài năm trở lại đây, Bộ tứ (Mỹ, Nga, Liên minh châu âu và LHQ) cố gắng đưa Israel và Palestine ngồi vào bàn đàm phán nhưng không có kết quả. Mỹ với tư cách là đồng minh thân cận của Tel-Aviv cũng mở các đợt ngoại giao con thoi để có một kết quả nào đó, nhưng rồi “người bạn hay phá bĩnh” của Washington đã làm cho mọi chuyện trở thành con số không. Một trong những trò phá bĩnh cố hữu của Tel-Aviv là tuyên bố rằng họ rất mong muốn hòa bình với người Palestine, nhưng thực tế lại bật đèn xanh cho việc tiếp tục xây dựng các khu định cư Do Thái trên vùng đất chiếm đóng của người Arập.

Không thể chờ đợi mãi, chính quyền Palestine buộc phải chọn lối đi của riêng mình là kiên quyết thúc đẩy kế hoạch hình thành nhà nước do Bộ tứ trước đây vạch ra và đệ trình lên LHQ. Từ đầu năm 2011 đến nay đã có mấy chục quốc gia trên thế giới công nhận Nhà nước Palestine. Mới đây, ngày 27/8, Honduras và El Salvador chính thức công nhận Nhà nước Palestine. Về phương diện này cũng cần thấy rõ, trong thâm tâm cả Mỹ và Israel đều không muốn mục tiêu thành lập Nhà nước Palestine theo giải pháp “2 nhà nước” trong lộ trình hòa bình do nhóm Bộ tứ bảo trợ sớm thành hiện thực, vì họ còn có những toan tính sâu xa về chiến lược kiềm chế và giám sát toàn bộ khu vực Trung Đông.

Để lý giải về mục tiêu và cách đi của chính quyền Palestine, ngày 27/8 tại Ramallah, Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas cho biết việc LHQ công nhận Palestine như là một nhà nước độc lập sẽ dẫn tới việc chấm dứt cuộc xung đột giữa Israel với Palestine. ông Abbas khẳng định đó sẽ là sự khởi đầu để chấm dứt cuộc xung đột và xây dựng một nền hòa bình, công bằng và cùng tồn tại thay vì trấn áp và xâm lược. ông Abbas nhấn mạnh, Palestine đệ đơn lên LHQ không có nghĩa là cách ly Israel và đối đầu với Mỹ, nhưng điều đó hiện thực hóa giấc mơ có một Nhà nước Palestine được công nhận chính thức. ông Abbas còn khẳng định Palestine sẵn sàng nối lại đàm phán hòa bình với Israel thay vì đệ đơn lên LHQ, song cũng đưa ra những điều kiện tiên quyết yêu cầu Israel chấm dứt xây dựng các khu định cư Do Thái và thừa nhận giải pháp hai nhà nước cùng chung sống.

Biếm họa về tiến trình hòa bình tại Trung Đông.

Ai Cập, quốc gia có liên hệ mật thiết với Mỹ và Israel cũng cho rằng đòi hỏi của thế giới Arập bây giờ không phải là tổ chức một hội nghị quốc tế về hòa bình Trung Đông mà là chuyển vấn đề này lên Hội đồng Bảo an LHQ. Theo Ai Cập, cần phải nhanh chóng tiến tới việc thành lập một Nhà nước Palestine độc lập với đường biên giới riêng, coi đó là chìa khóa cho tiến trình giải quyết cuộc xung đột hiện nay. Dư luận cũng được biết, Ai Cập đã thành công trong vai trò trung gian hòa giải giữa Hamas và Fatah, để sau 4 năm chia cắt, người Palestine đang đoàn kết thành một nhà.

Liên đoàn Arập (AL) ngày 23/8 đã tuyên bố bảo lãnh quyết định của Palestine đệ đơn gia nhập LHQ. Trong thông cáo báo chí đưa ra sau cuộc họp tại Doha (Qatar), ủy ban Giám sát sáng kiến hòa bình của AL cho biết các nước Arập ủng hộ để Nhà nước Palestine, với đường biên giới năm 1967 và thủ đô là Đông Jerusalem, có thể trở thành thành viên đầy đủ của LHQ.

Trưởng đoàn đàm phán Palestine, ông Saeb Erakat, cho biết kế hoạch của Palestine xin gia nhập tổ chức LHQ là cơ sở để duy trì tiến trình hòa bình Trung Đông. Trong thông cáo báo chí sau cuộc gặp với đặc phái viên LHQ Robert Serry và lãnh sự Anh tại Jerusalem, ông Erakat khẳng định việc vận động LHQ công nhận Nhà nước Palestine độc lập có ý nghĩa rất quan trọng trong nỗ lực duy trì tiến trình hòa bình khu vực cũng như đảm bảo giải pháp hai nhà nước cùng chung sống hòa bình. Vì vậy, ông kêu gọi cộng đồng quốc tế không nên do dự trong việc công nhận Nhà nước Palestine độc lập.

Sự quyết tâm, tinh thần đoàn kết nêu trên của các lực lượng chính trị và người dân Palestine là dấu hiệu cho một hy vọng mới, một tương lai đoàn kết dân tộc để tạo nên sức mạnh trong công cuộc đấu tranh thành lập nhà nước độc lập.

Trong lúc này, chính quyền Mỹ và Israel vẫn tiếp tục gây sức ép để Palestine từ bỏ việc đệ đơn gia nhập LHQ. Một nhà ngoại giao Arập giấu tên cho biết, Mỹ và Israel đang tìm cách ngăn chặn nỗ lực này của Palestine và người Arập, song lại không đưa ra được các giải pháp thay thế

Văn Bôl (tổng hợp)

antg.cand.com.vn

Bí ẩn xác ướp cổ tại Sài Gòn

Tháng Chín 17, 2011 Bình luận đã bị tắt

Mười bảy năm trước, khi giải tỏa để bàn giao mặt bằng xây dựng công trình ở khu vực xóm Cải, phường 8, quận 5, TP HCM các công nhân thi công phát hiện ra một cụm mộ cổ nằm trong khu vực này. Thông tin trên nhanh chóng thu hút sự quan tâm của giới khảo cổ, nghiên cứu lịch sử lẫn truyền thông… Xác ướp gần như còn nguyên vẹn của một người phụ nữ trở thành đề tài bàn tán sôi nổi một thời. Hơn một thập niên trôi qua, mọi thứ bắt đầu trôi vào quên lãng…

Trong phóng sự này, PV Chuyên đề ANTG sẽ tái hiện lại chuyện xa xưa lẫn tình tiết mới nhất về xác ướp bí ẩn này.

Ngôi mộ hoàng tộc

Tháng Giêng năm 1994, trong đợt chỉnh trang các khu nghĩa địa và khu gò mả nhỏ lẻ cho phù hợp với kiến trúc đô thị chung, nhiều công nhân bắt đầu tiến hành khai quật 16 ngôi mộ nằm riêng lẻ trong khu xóm Cải, quận 5.

Những ngôi mộ khác được tiến hành bình thường, cho đến khi nhóm công nhân chạm phải ngôi mộ nằm trong khuôn viên cả trăm mét vuông với kết cấu chắc chắn như một ngôi đình.

Cứ liệu lịch sử của Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam Tp HCM ghi chép rất tỉ mỉ về kết cấu ngôi mộ này. Vòng thành mộ hình chữ nhật có kích thước dài 10m, ngang 6m, cao 1,2m, dày 0,8m. Cổng tam quan có hình mặt tròn, trang trí búp sen trên đầu cột. Cổng cao 1,4m, rộng 0,8m và cao 0,6m được xây dựng có mái vòm cong lót giả ngói ống trang trí hình rồng. Sân thờ là khoảng đất rộng có chiều dài 6m và ngang 4m…

Gò mộ là khối hợp chất lớn dài 3,6m, rộng 3m, cao 3,2m bao gồm 2 phần: phần trước có bia mộ nằm chìm trong khối hợp chất và phần sau có trang trí hoa văn, mỗi bên hông đều có vẽ hình mặt tròn lớn. Chữ trên bia mộ đã bị mòn, chỉ còn đọc được 3 chữ Kỷ Tỵ Niên.

Tiến hành khai quật bằng cách san phẳng gò mộ, giới khảo cổ phát hiện 2 huyệt mộ. Bao gồm một huyệt mộ nam và một huyệt mộ nữ.

Huyệt mộ nam dài 2,3m, rộng 0,8m, sâu 1,56m, từ miệng huyệt xuống đến đáy mộ được bao phủ nhiều lớp hợp chất. Đáng lưu ý, có một lớp cát mỏng phủ trên quách gỗ. Quách và quan tài còn nguyên lớp sơn màu đen, bên trong quan tài còn lại một ít xương cốt và những hiện vật, như: 7 chiếc nhẫn vàng có mặt đá, quạt giấy, lược, ống và cây ngoáy trầu bằng đồng, hộp bạc có dây xích hình cầu dẹt chạm dây lá, nút áo mạ vàng, bút lông…

Huyệt mộ nữ nhỏ hơn huyệt mộ nam một chút. Quách và quan tài còn nguyên vẹn, tiến hành mở quách rồi mở tấm ván thiên quan tài, giới khảo cổ thấy phía bên trong được sắp xếp rất ngăn nắp. Phía trên là 2 chiếc chiếu cói trải rộng che phủ diện tích mặt áo quan, 2 chiếc chiếu này còn giữ được màu sắc tươi mới. Phía dưới 2 chiếc chiếu cói, là một lớp giấy bản, từng tờ cuộn dày khoảng 10cm trải đều. Tiếp đến, là một tấm lá triệu (có thể là lá phướn – PV) bằng lụa, trên mặt lụa có nhiều chữ Hán nhưng do bị dung dịch làm nhòe mặt chữ, nên giới khảo cổ chỉ còn đọc được 4 chữ với nghĩa là “…Hoàng gia cung liệm”.

Kế đến, là một lớp vải bó tròn thắt 9 nút cũng trải đều trên diện tích mặt áo quan. Nhiều khả năng, 9 nút thắt này tượng trưng cho phái nữ theo tín ngưỡng “Nam thất nữ cửu” (Trai 7 gái 9).

Phần chính yếu là một bọc dài lớn cuốn bằng lụa và gấm, có 9 dây vải cũng thắt 9 nút. Tiến hành tháo mở lớp vải này, giới khảo cổ vô cùng kinh ngạc khi phát hiện xác của người phụ nữ hầu như còn vẹn nguyên, tóc vẫn còn đen mun. Duy có điều, nhãn cầu và sụn mũi đã bị phân hủy, da và các khớp, cơ… vẫn còn mềm có màu tái xanh. Phía dưới chân người phụ nữ này còn đi hài bằng vải bố thêu kim tuyến, bên cạnh là một đôi hài khác.

Xác ướp được trưng bày tại không gian mới của viện bảo tàng.

Xác ướp được quấn hàng chục lớp vải may theo kiểu vừa áo vừa quần bằng lụa và gấm, áo rộng cài khuy chéo. Khuy được làm bằng mã não và kim loại mạ vàng.

Trên cổ xác ướp này có một xâu chuỗi làm bằng hạt bồ đề, một túi nhỏ bằng gấm bên trong có phong bì đựng 3 tờ giấy viết chữ Hán, bao gồm 1 tờ ghi chép bài chú Vãng sanh Tịnh độ, một tờ ghi tên năm vị Phật và một tờ giấy khác với ngữ nghĩa chỉ việc quy y. Trên hai cổ tay của xác ướp có đeo 2 vòng kim loại bằng vàng.

Dưới lớp vải bọc xác là một lớp nhựa thông dày khoảng 10cm. Sau cùng, là một tấm gỗ đục 7 lỗ tròn theo hình Thất tinh cách ván địa vài xentimét. Với tấm gỗ này, vô hình trung đã tạo nên một cỗ áo quan có hai đáy.

Tất cả những vật dụng này đều thấm một lớp dung dịch màu đỏ, có mùi thơm, hơi nhầy.

Trong bức ảnh được chụp lại khi tiến hành mở vải bọc xác, còn thể hiện lớp dung dịch đỏ thẫm này rất dày và có cảm giác sền sệt như hồ dán.

Sau khi kiểm tra sơ bộ, xác ướp này được chuyển về Bệnh viện Đại học Y Dược để tiếp tục nghiên cứu và khảo nghiệm. Kế đến, giới khảo cổ chuyển giao lại xác ướp cho Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Và từ khi ấy cho đến nay, xác ướp trên được lưu giữ tại nơi này.

Những vật dụng tùy táng cộng với dòng chữ “Hoàng gia cung liệm”, bên cạnh vị trí của ngôi mộ lẫn kết cấu bên trên huyệt mộ, cho phép nhận định đây là ngôi mộ của hai người thuộc hoàng thân triều Nguyễn. Niên đại được xác định là vào thời Vua Tự Đức.

Mật mã xác ướp cổ

Căn cứ vào các di vật tìm kiếm được trong huyệt mộ nữ, giới khảo cổ tạm chấp nhận quan điểm về nhân thân của xác ướp này. Bà tên là Nguyễn Thị Hiệu, có khả năng mất vào năm 60 tuổi.

Việc bảo quản xác ướp bà Hiệu là nhằm kéo dài tuần lễ ma chay, điều chỉ được thực hiện ở các tầng lớp trên, dành cho hoàng thân quốc thích. Tiếp đến, phân tích vào tờ lòng phái quy y và những chữ Hán còn sót lại trong mảnh lụa phủ quan tài, có thể thỏa mãn với nhận định: “Bà Hiệu có pháp danh là Minh Trường. Vị sư truyền đạo cho bà là Thiền sư Chánh Niệm, tên húy là Tiên Liễu, thuộc đời thứ 37 dòng đạo Bổn Nguyên, tông Lâm Tế. Nhiều khả năng bà là dâu hoặc thân thích bên đằng ngoại của các chúa hay vua triều Nguyễn”.

Khi tiến hành khai quật ngôi mộ cổ trên, giới khảo cổ xác định được vật liệu để xây dựng mộ rất cầu kỳ. Đó là một hỗn hợp gồm vôi sống giã nhỏ từ san hô, vỏ sò trộn với cát, mật đường mía, than và thêm một số chất khác chưa phân tích được. Tất cả hỗn hợp này khi quyện vào nhau trở thành một kết cấu bền chắc đến mức “cứng hơn cả bê tông”.

Để bảo vệ xác ướp, có thể gia quyến của bà Hiệu đã dùng hợp chất này đổ thành một khối thống nhất và hết sức rắn chắc bao bọc toàn bộ nấm mộ sâu đến tận đáy huyệt. Khi khai quật, các nhà khảo cổ phải nhờ đến sức của 15 công nhân mày mò đục từng mảnh nhỏ của khối kết cấu này, đục ròng rã 40 ngày mới chạm được lớp cát dày khoảng 40cm phủ trên quách của quan tài.

Nhà khảo cổ học lừng danh Đỗ Đình Truật, người có mặt từ đầu cho đến cuối để giám sát và tìm hiểu việc khai quật mộ cổ đã mô tả chi tiết ngôi mộ và lai lịch xác ướp.

Theo tư liệu của nhà khảo cổ Đỗ Đình Truật thì bọc ngoài quan tài là cái quách bằng gỗ rất dày, cao 0,5m dài 2,2m. Toàn bộ quách và quan tài được phủ bằng lớp sơn ta cổ, rất tốt và kín mít từa tựa như lớp dầu hắc (hắc ín). Chính nhờ lớp sơn này, mà nước mưa thấm vào lòng đất không thể ngấm vào áo quan và dung dịch ướp xác cũng không tràn ra bên ngoài. Việc dung dịch không tràn ra bên ngoài, giúp cho thi hài của người chết được bảo quản tốt. Đó là lý do vì sao thi hài của bà Nguyễn Thị Hiệu hầu như còn vẹn nguyên, trong khi thi hài của ngôi mộ kế bên (khả năng rất cao là chồng của bà Hiệu) dung dịch bị tràn ra ngoài nên chỉ còn xương cốt.

Đôi hài còn lại đặt cạnh chân của bà Hiệu được làm bằng chất liệu rất tốt, có khả năng là một loại bố tơ tằm. Trên thân hài, được trang trí bằng những sợi vàng mỏng, đính vào nhau tạo thành hình bông cúc, được kết lại bằng những dây bện bằng vàng mỏng.

Việc miếng ván gỗ phía dưới quan tài trong huyệt mộ của bà Hiệu được đục 7 lỗ theo chòm sao đại Hùng tinh Bắc Đẩu rất giống với những ngôi mộ cổ của các bậc cung phi, hoàng thân vua chúa từng được khai quật ở khu vực phía Bắc. Quan niệm về chòm sao đại Hùng tinh Bắc Đẩu xuất phát từ đạo Lão, người xưa tin rằng chòm sao trên sẽ bảo vệ vong linh người đã chết thoát khỏi các tai ương của đời sống dưới cõi âm.

Về dung dịch bao bọc xác ướp bà Hiệu, cô hướng dẫn viên bảo tàng nói với tôi rằng được tạo thành bởi dung dịch vữa ô dước và nhựa thông. Vữa ô dước ở miền Bắc còn gọi là nhựa dây tơ hồng, một hợp chất tự nhiên có độ kết dính rất cao.

Nhà khảo cổ Đỗ Văn Ninh viết, những cách thức bảo quản này đã giữ được các ngôi mộ cổ hầu như còn nguyên vẹn cả quan tài và các di vật chôn theo. Thậm chí, cả miếng cau tươi, miếng trầu không, hộp thuốc, quạt giấy, tràng hạt… đều có màu sắc như mới, cảm giác rằng có thể nhón tay bắt lấy và sử dụng được.

Sau khi bị không khí xâm nhập, thi thể của bà Hiệu đã không còn mềm như lúc được bao bọc bởi dung dịch. Quan sát xác của bà trong lồng kính đặt ở Viện Bảo tàng, thấy thi hài bà đã trở nên khô cứng như mảnh cau khô. Duy trên đầu, vẫn còn chỏm tóc dài màu đen, phất phơ. Hốc mắt và mũi của bà gần như bị phân hủy hoàn toàn.

Vài năm trước, khi vào Viện Bảo tàng tham quan, tôi còn được thấy những vật dụng tùy táng của bà. Nhưng hiện tại, thi thể bà Hiệu đã được đặt trong một gian phòng khác, đẹp hơn, thông thoáng hơn… nhưng do kết cấu của căn phòng, nên các vật dụng này không còn khoảng không để trưng bày buộc phải lưu giữ trong nhà kho của Viện Bảo tàng. Các mảnh xương sọ của cụ ông cũng lưu trữ tại nhà kho này. Theo định kỳ, thi thể của bà Nguyễn Thị Hiệu sẽ được đưa ra khỏi lồng kín để bảo quản bằng hóa chất hiện đại. Khả năng là sau nhiều… trăm năm nữa, thi thể bà sẽ tự phân hủy (?!).

Có thể nói, xác ướp gần như còn vẹn nguyên của bà Hiệu là xác ướp rất độc đáo mà giới khảo cổ vô tình phát hiện được tại Sài Gòn. Còn để xác minh sâu hơn nhân thân của bà Hiệu, có lẽ vẫn còn phải chờ. Kể cả gốc tích nơi sinh sống, gia quyến, phẩm hàm, mối quan hệ với vương triều Gia Long…

Tiến sâu vào thế giới xác ướp và mộ cổ, tiếp xúc với những nhà khoa học, khảo cổ lâu năm, mới thấy hết sự huyền bí của xác ướp tại miền Nam. Chúng tôi sẽ tiếp tục công bố cũng như cố gắng lý giải sự huyền bí của mật mã xác ướp đến bạn đọc.

Trao đổi với PV Chuyên đề ANTG, nhà khảo cổ học lừng danh Đỗ Đình Truật cho biết thêm:

Ngay khi tiến hành tháo các lớp vải liệm của bà Hiệu, chúng tôi rất bất ngờ khi phát hiện hình thể bà đẹp như con gái. Dẫu da dẻ do thời gian nên có màu tái xanh.

Những trang sức bà Hiệu mang theo khi chết nhiều khả năng được xứ Chân Lạp tiến cống cho triều đình nhà Nguyễn. Vua nhà Nguyễn ban lại cho người thân, nên bà có được. Tôi tin, bà Hiệu là em ruột của Nguyễn Phúc Luân, cha của Nguyễn Ánh, tức Gia Long. Xét, bà là cô ruột của Vua Gia Long, nên mộ của bà mới đồ sộ như vậy.

Theo khảo sát của tôi, bà Hiệu đi tu từ rất sớm, nên không thể có chồng. Ngôi mộ được gọi là mộ ông, tôi không được biết. Nhưng, có chi tiết quan trọng không thể bỏ lỡ đó chính là, khi tiến hành khai quật ngôi mộ cổ của bà Hiệu, chúng tôi phát hiện có mộ yểm.

Mộ yểm, chính là những ngôi mộ của các cung nữ hoặc binh lính được chôn theo để bảo vệ chủ nhân. Mộ yểm, còn có ý nghĩa khác về mặt tâm linh.

Ngôi mộ yểm mà tôi đào được nằm sâu dưới lòng đất, có thể đó là mộ của binh lính, xương cốt đã vỡ vụn.

Khi mang thi thể bà Hiệu về Trường đại học Y Dược để nghiên cứu, chúng tôi đã sơ suất quên mất việc khảo nghiệm hàng tạ nhựa thông lâu năm được đặt dưới quách của bà Hiệu. Thứ nhựa thông quý, có khả năng tạo ra mùi thơm hàng trăm năm cũng như ngăn chặn không cho vi khuẩn lẫn côn trùng hủy hoại thi thể người chết. Do sơ suất này, hàng tạ nhựa thông đã bị ăn cắp hết.

Chất liệu để xây mộ cho đến giờ còn là một bí ẩn, bởi độ kết dính lẫn khả năng chịu tác động ngoại lực của khối hợp chất này là khủng khiếp. Chúng ta chỉ có thể biết một số chất và suy đoán thêm, nhưng cách thức, tỷ lệ để phối hợp hợp chất thì không thể đoán biết hết được.

Ngô Nguyệt Hữu

antg.cand.com.vn

Đời sống

Agel Việt Nam bất ngờ đóng cửa: Rắp tâm đầu cơ lừa đảo

Tháng Bảy 12, 2011 Bình luận đã bị tắt

Huỳnh Mạnh Hưng (bên phải), kẻ đã có những buổi "đào tạo" người ta lừa đảo nhau, tạo thành một hệ thống lừa đảo trong Agel Việt Nam.

Vậy là không còn nghi ngờ gì nữa, việc dụ dỗ đầu cơ của Công ty bán hàng đa cấp Agel đã được chứng minh là sự thực. Trong quá trình điều tra về sự cố sụp đổ của Công ty Agel Việt Nam, chúng tôi đã phát hiện một âm mưu lừa đảo thực sự kinh hoàng. Hàng chục, hàng trăm người đã bị mắc vào tròng, với số tiền tham gia mỗi người từ vài trăm triệu đến một vài tỉ đồng.

Bỏ ra 400 triệu, thu về 9 tỉ!

Thật khó có thể giữ được cảm xúc bất bình đến giận dữ, nỗi sợ hãi đến kinh hoàng và sự ớn lạnh đến ghê tởm khi đọc những tập tài liệu, nghe những đoạn băng mà “thủ lĩnh” Agel dụ dỗ người khác vào con đường đầu cơ trục lợi. Và không khỏi đau lòng khi chứng kiến danh sách những người bị lừa ngày càng dài ra, con số thiệt hại lớn dần lên.

Có nhiều dữ liệu về hoạt động lừa đảo của các “thủ lĩnh” Agel Việt Nam, nhưng trong khuôn khổ một bài báo không cung cấp hết, chỉ nêu ra đây một đoạn băng ghi âm cũng đủ để mọi người thấy rõ một âm mưu lừa lọc. Đoạn băng mà phóng viên ANTG có trong tay ghi âm lại một buổi “đào tạo” của “thủ lĩnh” tên là Huỳnh Mạnh Hưng. Đây hoàn toàn không phải là đoạn băng thu lén, mà thông thường trong các buổi “đào tạo”, các nhà phân phối (NPP) vẫn luôn thu lại những “lời vàng ý ngọc” của các “thủ lĩnh”, để về nghe lại cho thuộc các kỹ thuật tuyển dụng và bán hàng. Nhưng trong buổi “đào tạo” này, ông Hưng phân tích cơ hội làm giàu từ kinh doanh đa cấp (KDĐC), nhưng hoàn toàn không phải là bán hàng mà bày cho NPP làm theo một cách, cái mà ông ta gọi là “đầu tư thông minh”.

Bằng những lời dụ ngon dỗ ngọt, đưa ra những viễn cảnh huy hoàng và những phép tính ảo, “thủ lĩnh” Agel cho rằng NPP chỉ cần bỏ ra 400 triệu đồng, “đầu tư” 21 suất tham gia phân phối, sẽ đạt đến doanh thu nửa triệu USD/tháng.

“500 ngàn đôla Mỹ một tháng, tương đương 9 tỉ đồng Việt Nam, mà vốn hoàn toàn không nằm trong doanh nghiệp của bạn, mà đó chính là lãi ròng”. Trong đoạn băng là một giọng nói đầy nhiệt huyết, sôi nổi. Người diễn thuyết ba hoa về những viễn cảnh hết sức huy hoàng, nghe mà cứ tưởng như thế giới này không còn gì bằng khi tham gia bán hàng đa cấp (BHĐC) ở Agel. Ngoài khoản tiền như nước lũ tràn vào, NPP được ghi danh vào câu lạc bộ Chủ tịch và được hưởng các quyền lợi của thành viên VIP. Hấp dẫn nữa là những chuyến du lịch cao cấp, đến những xứ sở thần tiên mà cả đời người lao động khó lòng mơ được đặt chân đến.

“Chúng ta sẽ được du lịch đến các nước châu Âu. Pháp này, Ý là Italy đó, Spanish là Tây Ban Nha đó. Trên con tàu 5 sao đó có đủ trò cho mình chơi, ai muốn chơi gì thì chơi, miễn phí. Tiền bỏ trên bàn là tiền bằng giấy, muốn xài gì cũng được. Người ta tập cho mình thói quen xài tiền của triệu phú, mỗi ngày phải xài bằng hết số tiền đó”. Nhà diễn thuyết thao thao bất tuyệt, xem những người ngồi nghe như ếch ngồi đáy giếng.

Trong đoạn băng, ngoài lời người diễn thuyết, còn lại không hề có một tiếng động. Người nghe có thể hình dung được một hội trường im phăng phắc, hàng trăm con người mắt tròn mắt dẹt, há hốc miệng ra nghe như nuốt lấy từng lời châu ngọc của “thủ lĩnh”. Kế đến, “thủ lĩnh” bắt đầu thò ra thủ đoạn của mình mà không sợ bị phát hiện, bởi những hình ảnh hào nhoáng đã choáng ngợp hết toàn bộ tâm trí người nghe. Theo cách này, người diễn thuyết đã trắng trợn chỉ ra rằng nhà đầu tư cần bỏ ra thật nhiều tiền để đặt mua nhiều suất bên dưới vị trí của mình. Đặt càng nhiều là càng thông minh. Ban đầu là đặt suất cho vợ, cho con, kế đến là bịa ra suất “báo hiếu” đặt cho cha mẹ. Không còn tên gì để gọi tên cho hợp lý, người “đào tạo” bèn trắng trợn nói ra rằng số còn lại cứ đặt khống hàng chục suất bên dưới, để nhanh chóng đạt được danh hiệu cấp cao và lĩnh tất cả các khoản hoa hồng, tiền thưởng.

Theo cách này, người tham gia hoàn toàn không cần bán hàng. “Nghĩ rằng việc đầu tư là ôm hàng về bán, là hoàn toàn không phải. Chúng ta chỉ xí chỗ, còn mình sức đâu mình làm việc. Khi tuyển được người ta thay tên họ vào và lấy ra 20 triệu đồng. Nếu tuyển được 20 người ta lấy được 400 triệu”.

Bịp bợm

Bằng lối xảo ngôn, “thủ lĩnh” Huỳnh Mạnh Hưng làm phép tính và cho rằng, số tiền hoa hồng và tiền thưởng ngay từ khi vừa tham gia là 400 triệu đồng, đủ để trả lãi ngân hàng trong vài năm. Những lời dỗ ngon nói ngọt, những xảo ngữ khoa ngôn đã đem lại kết quả. Nhiều NPP đã bị mê hoặc và đã lao đầu vào cái bẫy của ông ta. Một NPP tên là Th. ở TP HCM đã bỏ ra 830 triệu đồng mua 50 suất bên dưới của mình, tạo thành cái hệ thống “ảo”. Agel sập tiệm, số tiền bỏ ra xem như thành mây khói. Người đưa bà vào Agel, ông Nguyễn Ngọc Đức, đã bỏ ra gần 1 tỉ và giờ cũng ôm quả đắng.

Một NPP khác, bà Kim Yến, được cho rằng đã bỏ vào đây 3,2 tỉ đồng, ngay lập tức được vào quỹ thưởng xe ôtô, nhưng trao đổi với PV, bà Yến xác nhận chỉ bỏ ra gần 1 tỉ đồng. Một người tên D. ở Quảng Ninh, không hiểu biết gì về kinh doanh đã nghe lời dụ ngon dỗ ngọt, đã bỏ tiền ra ngay một lần lên tới chức Diamond, tháng đầu nhận hoa hồng mấy chục ngàn USD, tháng sau lên công ty hỏi “tiền lương của tôi đâu”… Một người ở Hà Nội đã đầu cơ đến 3,5 tỉ đồng, giờ không còn đường thu hồi, và những viễn cảnh huy hoàng giờ thành trái đắng.

Trong bài nói chuyện của mình, ông Hưng cũng không ngần ngại xác nhận một số người như một ông Quang nào đó đã “đầu tư thông minh” 900 triệu đồng, một người tên Đức đã bỏ ra 1,4 tỉ  đồng. Bản thân ông Hưng trong vòng một năm đã gọi được 6.000 người vào hệ thống. Ông Hưng tiết lộ chỉ trong một lần làm việc, ông đã “mời” được một doanh nhân ở Bình Dương, và doanh nhân này đã gọi thêm 5 người nữa tham gia vào chương trình “đầu tư thông minh”. Đủ thấy, một cái bẫy giăng ra đã rộng khắp cả nước.

Điều này khiến những NPP nhớ lại, hàng quý Tập đoàn Agel có xuất bản tờ Leader Time, trong đó in hình ảnh những người vào quỹ xe hơi khu vực châu Á. Rất đáng chú ý là trong số này, rất nhiều người Việt Nam, từ sinh viên, thợ cắt tóc, nhân viên công nghệ thông tin, chủ cửa hàng bánh kẹo, chủ shop hoa, nhân viên bán hàng, đến bác sĩ, doanh nhân… chủ yếu là ở phía Bắc, được vào quỹ thưởng xe hơi. Hầu hết những kết quả này đều phải xem lại vì không thể trong vòng 1-2 năm mà hàng chục người đã đạt được. Theo thông tin chúng tôi có được, hiện có đến cả trăm người tham gia đầu cơ theo kiểu này và giờ đang ôm hận.

Công ty Agel Việt Nam khai trương vào tháng 8/2007. Không ngờ trong đó có nhiều kẻ vì lòng tham đã khiến nó sụp đổ quá nhanh.

Huỳnh Mạnh Hưng bên chiếc Mercedes nhờ xúi giục đầu cơ mà có được.

Nhưng nghe đoạn băng này, có cảm giác cứ theo cách ông Hưng bày cho thì không mấy chốc đã trở nên triệu phú. Người có kiến thức về BHĐC khi nghe đoạn băng này thực sự ớn lạnh, rùng mình về một âm mưu lừa đảo một cách vô nhân tính. Trong khi đó, người nói vẫn leo lẻo về tính nhân đạo, nhân văn, về sự yêu thương giúp đỡ con người, về tính từ bi, lượng cao đức dày của… nhà Phật. Ông ta khuyến khích NPP đi tìm người, đưa vào hệ thống và đầu cơ theo cách trên. Luận điệu xảo trá là ông ta gọi cách làm này là nhân bản, nhân văn, bởi đã “giúp” được nhiều người khác cũng có thu nhập, giàu có như mình. Ông ta gọi việc bỏ tiền ra này là “cho trước nhận sau”, là một hành vi nhân đức.

Những người được dụ dỗ đưa vào được gọi là được “giúp đỡ”, và gọi đó là những người ngồi chung trên con tàu hạnh phúc. “Ý nghĩa nhân bản, nhân văn rất lớn. Bạn đi dạy cho người ta và người ta đi dạy cho người khác, tạo ra một vòng nhân đức luân hồi. Vòng nhân đức càng ngày càng rộng, rộng ra bao nhiêu thì người đầu tiên nhận được đức dày bấy nhiêu. Đó là đức dày của nhà Phật”. Điều này thật là đáng sợ vì nếu làm như lời của người này, sẽ tạo thành một hệ thống lừa đảo.

Có thể nói, đây là chứng cứ về những tội ác trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp. Chỉ những kẻ mất hết nhân tính mới dám làm những việc này, bởi hậu quả là đưa hàng bao nhiêu con người vào chỗ một phút trắng tay, nhà tan cửa nát. Điều thực sự kinh sợ là thủ đoạn lừa đảo của con người này hết sức tinh vi. Ông ta đã đưa toàn bộ vào trong bài “đào tạo” của mình, với những lời diễn thuyết hùng hồn bay bổng, với những thiên đường tuyệt vời khiến người nghe đã không kịp phân biệt, và rơi vào âm mưu, cạm bẫy.

Vô trách nhiệm!

Hiện tại Công ty Agel Việt Nam đã ngừng hoạt động, những thiệt hại của NPP chưa được bồi thường. Có thể nói, cách làm theo kiểu đầu cơ này là vụ lừa đảo lớn nhất từ trước đến nay trong lĩnh vực KDĐC của Việt Nam. Bản chất của KDĐC không xấu, bản thân Công ty Agel không xấu, nhưng tất cả sẽ bị hủy hoại bởi những kẻ mang đầy lòng tham và âm mưu trục lợi. Đáng thương nhất là những người làm ăn chân chính, đã bị mất tiền còn mang thêm tiếng.

Người đứng trong buổi diễn thuyết này đã đạt đến cấp Corporate Director trong thang bậc đẳng cấp của Tập đoàn Agel, thu nhập từ 15.000 đến 30.000 USD/tháng. Điều đáng nói là, trong hoạt động bán hàng theo kiểu đa cấp, thì mỗi hoạt động của một NPP luôn luôn có sự giám sát, hỗ trợ của người đi trước đã đưa vào, gọi là người đỡ đầu (sponsor). Người đỡ đầu luôn sát sao, kèm cặp, đào tạo và giúp đỡ người tuyến dưới. Còn người tuyến dưới phải sao chép y nguyên cách làm của người đỡ đầu. Điều đó có nghĩa, cách làm mà ông Huỳnh Mạnh Hưng truyền đạt, sponsor của ông không thể không biết. Và như vậy dưới chép lên, trên bày xuống tạo thành một hệ thống lừa đảo trong Agel.

Điều đáng lên án nữa là những người gây ra “tội ác” đến giờ này chưa bao giờ nhận trách nhiệm về mình. Bà Th. đổ tiền ra đầu cơ và trở nên khuynh gia bại sản, là do ông Đức mời vào. Thế nhưng khi trao đổi với chúng tôi, ông Đức nói rằng ông cũng bị lừa. Ông Đức nói là cũng không hiểu gì về BHĐC, mà ông Phan Vuôn và bà Dung là người đỡ đầu đưa vào, bảo bỏ ra bao nhiêu tiền ông bỏ bấy nhiêu. Ông Phan Vuôn trả lời với phóng viên là ông không hiểu gì cả, mọi cái do vợ ông là bà Dung làm. Thế nhưng, bà Dung cũng than trời là mình cũng bị lừa, và  nói rằng ông Đức nghe theo ông Huỳnh Mạnh Hưng mà đầu cơ chứ không phải do bà.

Bà Kim Yến bỏ cả tỉ đồng là do bà Bích rủ vào Agel. Nhưng bà Bích trong buổi trao đổi với phóng viên vẫn loanh quanh, khi thì nói không biết bà Yến đã đầu cơ bao nhiêu tiền, khi lại nói đã khóc như mưa vì bà Yến mất tiền! Có lúc, bà Bích nói rằng rất nỗ lực giải quyết hậu quả bằng việc bán hàng cho bà Yến, khi lại nói đã chuyển vụ này cho giám đốc Agel giải quyết(!).

Cứ như vậy, vì thủ phạm cũng chính là nạn nhân nên giờ này khi vụ việc đổ vỡ, hàng chục, hàng trăm tỉ đồng bị mất, người ta tranh thủ kêu ca để chạy tội cho mình. Điều nguy hiểm là những kẻ chủ mưu đã ôm tiền cao chạy xa bay. Ông Huỳnh Mạnh Hưng nay đã chuyển sang Synergy, một công ty BHĐC khác. Bà Hoàng Hải Yến, mặc dù vụ đổ vỡ ở Agel Việt Nam chưa giải quyết xong, cũng đã sang làm một thủ lĩnh bên Qivana, sắp tới đặt văn phòng tại TP HCM. Có  trời mới biết ở  những công ty BHĐC mới, những người này sẽ giở thêm chiêu gì để “dụ khị” kẻ hám lợi khác…

Còn lại chỉ là những người mất tiền đau khổ, ngơ ngác nhìn nhau, oán trách, chửi bới nhau. Đây là bài học quý giá cho những người tham gia trong lĩnh vực BHĐC và cũng là bài học cho các công ty BHĐC soi rọi để nhanh chóng điều chỉnh hệ thống

Đặng Vỹ

antg.cand.com.vn

Âm mưu can thiệp của phương Tây và Syria

Tháng Năm 13, 2011 Bình luận đã bị tắt

Tình hình Libya trên trang nhất báo chí phương Tây những ngày qua nay đã được thay thế bằng điểm nóng Syria: biểu tình và biểu tình; chính quyền Damas đàn áp người biểu tình, thế giới tăng sức ép lên chính quyền Syria… Tuy nhiên, ít ai biết được rằng hàng trăm người Syria, gồm cả thường dân lẫn quân sự, trong các đám đông dưới lòng đường phố đã ngã xuống dưới họng súng của những tên bắn tỉa được cơ quan tình báo nước ngoài đào tạo.

Chiến dịch tung tin đồn nhảm trên nhằm một mục đích duy nhất là sự can thiệp của phương Tây vào Syria.

Nhìn chung báo chí Pháp đều có chung một nhận xét về tình hình Syria hiện nay: sau các vụ đàn áp biểu tình đẫm máu, chế độ của Tổng thống Syria Bachar al-Assad đang bị áp lực ngày càng mạnh từ quốc tế cũng như từ trong nước.

Tờ Le Figaro cho biết, hơn 150 nhà đối lập Syria hôm 27/4 vừa qua đã kêu gọi chế độ Damas, trước hết phải thảo ra một Hiến pháp mới bảo đảm các quyền thiết yếu của công dân và bảo đảm tam quyền phân lập một cách toàn diện. Họ cũng yêu cầu phải cải tổ triệt để hệ thống tư pháp tham nhũng thối nát của Syria.

Ngay trong nội bộ chế độ Damas cũng đã bắt đầu rạn nứt. Hôm 27/4, hơn 230 đảng viên đảng Baas đang cầm quyền đã tuyên bố ra khỏi đảng. Những hành động của lực lượng an ninh nhắm vào các công dân không một tấc sắt trong tay là trái với những giá trị của nhân loại, và trái với những khẩu hiệu của đảng”. Các đảng viên ly khai cũng lên án cách thức mà báo chí Syria mô tả những người biểu tình bị giết chết, bị thương hoặc bị tra tấn, gọi những người này là “các băng đảng tội phạm vũ trang”.

Việc hàng trăm thường dân bị hạ sát trong những cuộc biểu tình ôn hòa đã gây phẫn nộ dư luận quốc tế. Đại diện của 27 nước thành viên Liên minh châu Âu ngày 29/4 họp lại ở Bruxelles để thảo luận về các biện pháp trừng phạt có thể được ban hành đối với Syria. Cùng ngày, Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc họp phiên đặc biệt về Syria theo yêu cầu của Mỹ. Theo báo chí Mỹ, Tổng thống Barack Obama kêu gọi Damas phải chấm dứt ngay việc dùng vũ lực chống lại những người biểu tình ôn hòa. Ông cũng cho rằng, Damas đã không nghiêm túc tuân thủ thông báo bãi bỏ tình trạng khẩn cấp và tố cáo Tổng thống Syria đang tìm kiếm sự hỗ trợ từ Teheran nhằm thực hiện vụ đàn áp này.

Đám tang 15 cảnh sát bị kẻ giấu mặt sát hại hôm 27/4.

Báo chí Mỹ còn cho rằng, vừa qua, Teheran đã cung cấp cho Damas các loại phương tiện chống bạo động để đàn áp người biểu tình. Đồng quan điểm với Mỹ, một số nước phương Tây như Anh, Pháp, cũng kêu gọi chấm dứt bạo lực, đề nghị mở một cuộc điều tra độc lập, minh bạch và hiệu quả về hành động giết người này, đồng thời yêu cầu Tổng thống Syria phải thực hiện các cải cách và trả tự do cho các tù nhân chính trị.

Thực tế là 15 nước thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc hôm 26/4 đã không đồng ý được với nhau về một bản tuyên bố lên án đàn áp biểu tình ở Syria theo đề xuất của châu Âu. Ba nước Syria, Nga và Trung Quốc đã ngăn chặn bản tuyên bố này. Đại diện của Nga tại Liên Hiệp Quốc cho rằng, sự can thiệp từ bên ngoài có thể sẽ gây ra nội chiến ở Syria. Theo đại diện ngoại giao của Damas, các nhóm vũ trang đã lợi dụng các cuộc biểu tình và bắn vào lực lượng an ninh. Chính vì thế mà đã có hàng chục người thiệt mạng, chứ an ninh Syria không hề nổ súng. Ngay cả khi phương Tây thuyết phục được Nga không phủ quyết tuyên bố kể trên, thì thái độ của Liban, nước Arập duy nhất là thành viên Hội đồng Bảo an, vẫn còn không rõ. Beyrouth đã ra chỉ thị cho đại sứ phản đối bản tuyên bố, để không làm cho “người anh Syria” phải lúng túng.

Tờ Liberation thì đưa ra phân tích: Nếu có bất kỳ một hành động can thiệp vào Syria sẽ là nguy cơ gây mất ổn định cả khu vực Trung Đông, nhất là vì Syria là đồng minh của Iran. Khác với nhà lãnh đạo Gaddafi bị cô lập hoàn toàn, Tổng thống Bachar al-Assad vẫn còn được sự ủng hộ của các lãnh đạo Arập. Tờ báo kết luận: Bây giờ chỉ còn duy nhất giải pháp ban hành các biện pháp trừng phạt của Liên Hiệp Quốc, nhưng cũng chưa chắc là Nga và Trung Quốc sẽ bỏ phiếu thuận.

Một số tên bắn tỉa đã bị an ninh Syria bắt trong tuần qua.

Tuy nhiên, triết gia người Italia, Domenico Losurdo, cho rằng phương pháp tung tin đồn nhảm trên của phương Tây không có gì là mới.

Những nhóm bí mật bắn vào người biểu tình và cả lực lượng chống biểu tình của Syria là những kẻ kích động, chủ yếu có liên hệ với các cơ quan tình báo nước ngoài. Hãng Truyền thông Sana còn phát hiện có những chai chứa đầy máu lợn và gà lẫn trong người biểu tình. Chúng được dùng để tạo ra cảnh máu chảy, người chết trong các đoàn người biểu tình, sau đó được quay video và tung lên mạng.

Thời gian gần đây, những phát biểu của chính quyền Mỹ liên tục được phát trên các trang mạng có số lượng lớn người truy cập như Facebook, Twitter. Đây được coi là những công cụ phát tán thông tin hữu hiệu. Chính phủ Mỹ đã chi ra nhiều tiền để tài trợ cho những công cụ này, khiến việc trừng phạt và can thiệp vào các nước “độc tài” trở nên hiển nhiên

Văn Bôl (tổng hợp)

antg.cand.com.vn

50 năm sự kiện Vịnh Con heo: Tất cả đều do người Mỹ gây nên

Tháng Năm 13, 2011 Bình luận đã bị tắt

Một chiến dịch xâm lược được thực hiện bởi 2 đời Tổng thống Mỹ nhằm mục đích duy nhất là lật đổ chính quyền non trẻ của nhà cách mạng Cuba Fidel Castro cuối cùng đã biến thành thảm họa đối với những kẻ đã tạo ra nó. Nhân kỷ niệm 50 năm sự kiện lịch sử tại Vịnh Con heo, báo chí Cuba và quốc tế cho rằng toàn bộ cuộc xâm lược đều do người Mỹ làm.

Kế hoạch do Phó tổng thống Richard Nixon đề xuất, Tổng thống Eisenhower phê chuẩn, Thượng nghị sĩ Robert Kennedy ủng hộ từ bên trong Quốc hội, Tổng thống John F. Kennedy phát lệnh tấn công và giao toàn bộ cho CIA trực tiếp triển khai.

Kế hoạch của Richard Nixon và Dwight Eisenhower

Theo tài liệu lưu trữ trên trang History of Cuba, cuộc xâm lược tại Vịnh Con heo (tiếng Tây Ban Nha là Bahía de Cochinos) bắt nguồn từ nỗi ám ảnh chung của giới chính trị nước Mỹ thời Chiến tranh lạnh rằng “Cộng sản sẽ thay thế chủ nghĩa đế quốc thống trị thế giới”. Một năm sau khi Cách mạng Cuba thành công (1/1/1959), Tổng thống Dwight D.Eisenhower bắt đầu trở mặt, làm cho quan hệ 2 nước xấu đi, liên tục có những hành động quấy phá Cuba.

Tổng thống John Kennedy trong Chiến dịch Pluto.

Kế hoạch bao gồm: Một là, tạo ra một lực lượng đối lập đoàn kết và có “trách nhiệm” chống lại Cách mạng Cuba, được dung dưỡng ở bên ngoài lãnh thổ Cuba; hai là, triển khai phương tiện thông tin đại chúng nhằm phục vụ mục đích tâm lý chiến, tuyên truyền chống phá Nhà nước Cuba; ba là, xây dựng và phát triển một đội ngũ tình báo bí mật bên trong Cuba, phối hợp chặt chẽ với thành phần Cuba lưu vong; và bốn là, xây dựng lực lượng bán quân sự bên ngoài Cuba phục vụ cho “chiến tranh du kích” sau này. Tất cả hành động này đều phải làm sao giấu thật kỹ “bàn tay” can thiệp của Mỹ.

Ngày 17/3/1960, “Chiến dịch Pluto”, đã được Tổng thống Eisenhower phê chuẩn tại cuộc họp Hội đồng An ninh quốc gia (NSC). 9 tháng sau, ngày 3/1/1961, Eisenhower đã biểu lộ sự nôn nóng muốn tiến hành ngay kế hoạch xâm lược Cuba, bày tỏ một thái độ hung hãn chống lại Cách mạng Cuba và quyết định cắt quan hệ ngoại giao vĩnh viễn với Cuba.

Bước chuẩn bị tiếp theo, Eisenhower duyệt chi ngân sách 4,4 triệu USD (theo thời giá lúc đó) chi phí cho việc triển khai kế hoạch, trong đó dành 950.000USD cho hoạt động chính trị, 1,7 triệu USD cho công tác tuyên truyền tâm lý chiến, 1,5 triệu USD tài trợ cho lực lượng bán quân sự và 250.000USD chi phí cho hoạt động tình báo. Một năm sau, khi tiến hành chiến dịch xâm lược, chi phí đã đội lên đến 46 triệu USD.

Ngay sau khi lên nắm quyền, Tổng thống Kennedy đã tỏ ra rất “tâm huyết” với kế hoạch tấn công Cuba của Eisenhower. Điều này được thể hiện rõ trong Thông điệp liên bang đầu tiên mà Tổng thống Kennedy đọc trước công chúng Mỹ ngày 30/1/1961, trong đó Kennedy tuyên bố “không thể để cho Cộng sản thống trị Tây bán cầu”. Theo các tài liệu về Vịnh Con heo, ngoài Tổng thống Kennedy, anh trai ông  là Thượng nghị sĩ Robert Kennedy cũng là người ủng hộ rất nhiệt tình Chiến dịch Pluto.

Quyết định của Kennedy, CIA trực tiếp triển khai

Từ tháng 4/1960, CIA đã bắt đầu tuyển mộ các phần tử Cuba lưu vong ở Miami, bang Florida và tiến hành công tác huấn luyện. Theo tài liệu lưu trữ, CIA đã chi trả lương huấn luyện cho các phần tử Cuba lưu vong 400USD/người/tháng, cộng thêm 175 USD/tháng để nuôi vợ con kèm theo.

Từ tháng 4 đến 7/1960, việc tuyển chọn nhân sự và huấn luyện được tiến hành trên đảo Useppa và một số cơ sở tại Nam Florida, còn các bài huấn luyện chiến tranh du kích đặc biệt được huấn luyện tại 2 căn cứ của Mỹ ở Panama là Fort Gulick và Fort Clayton. Khi quân số tuyển mộ tăng lên, CIA bắt đầu tiến hành huấn luyện tác chiến trên bộ tại căn cứ CIA mang mật danh “JMTrax” ở gần Retalhuleu, vùng duyên hải Sierra Madre của Guatemala. Lực lượng Cuba lưu vong tham gia huấn luyện tự đặt tên cho đơn vị mình là Lữ đoàn 2506.

Mùa hè 1960, một sân bay dã chiến (mật danh “JMMadd”, còn gọi là Căn cứ Rayo) đã được xây dựng gần Retalhuleu. Đơn vị Alabama ANG (Vệ binh Quốc gia đóng tại Alabama) được giao phụ trách huấn luyện kỹ thuật bắn súng và lái máy bay cho Lữ đoàn 2506. Theo tài liệu lưu trữ, hơn 30 máy bay chiến đấu loại B-26 đã được sử dụng cho công tác huấn luyện, sau đó 20 chiếc được cải tiến thành máy bay tấn công phục vụ Chiến dịch Pluto.

Ngoài ra, một căn cứ khác là Garrapatenango ở Guatemala cũng được sử dụng để huấn luyện lực lượng bán quân sự, hỗ trợ tiền phương; còn công tác huấn luyện người nhái, sử dụng tàu thuyền đổ bộ tiến hành tại đảo Vieques, Puerto Rico. Ngày 9/4/1961, Lữ đoàn 2506 cùng toàn tàu chiến, xe tăng và máy bay từ Guatemala được chuyển đến mật cứ JMTide trong Thung lũng Hạnh phúc ở Puerto Cabezas, Nicaragua bằng máy bay Curtiss C-46.

Trước khi tiến hành việc đổ bộ lên bãi biển Playa Giron (Vịnh Con heo), CIA đã thực hiện một số cuộc oanh tạc bằng máy bay xuống các doanh trại dân quân Cuba ở Bayamo (3/4/1961), Nhà máy đường Hershey ở Mantanzas (ngày 6/4/1961). Ngoài ra, một chuyến bay của Hàng không Cuba (Cubana Airliner) cũng bị cướp và điều đến Jacksonville, bang Florida.

Theo kế hoạch ban đầu, việc đổ bộ sẽ diễn ra vào ban ngày, địa điểm là thành phố biển Trinidad, miền Tây Nam Cuba. Tuy nhiên, vì Tổng thống Kennedy sợ đổ bộ ban ngày sẽ làm lộ diện vai trò chủ mưu của Mỹ nên đã quyết định thay đổi kế hoạch đổ bộ vào ban đêm tại Vịnh Con heo, nơi được xem là thuận tiện hơn cho việc sử dụng máy bay tấn công trên bộ.

Kennedy tính toán rằng, một khi đã làm chủ được khu vực Vịnh Con heo, bước đầu tiên là CIA dựng lên chính quyền kháng chiến lâm thời sẽ ngay lập tức được Mỹ công khai công nhận là “Chính phủ hợp pháp ở Cuba”. “Chính phủ” này ngay sau đó sẽ chính thức yêu cầu Mỹ hỗ trợ về mặt quân sự và một cuộc can thiệp mới với quy mô toàn diện sẽ được bắt đầu.

Các phần tử Cuba phản động thuộc Lữ đoàn 2506 bị bắt sau khi đổ bộ vào Playa Giron và Playa Larga trong Vịnh Con heo.

Ngày 12/4/1961, tức 5 ngày trước khi Chiến dịch Pluto mở màn, Tổng thống Kennedy thêm một lần nữa cố tình tạo bức màn che đậy âm mưu đen tối của Mỹ khi phát biểu trên báo chí rằng “sẽ không có, dù trong bất cứ điều kiện nào, một sự can thiệp của lực lượng vũ trang Mỹ vào Cuba”, rằng chính quyền Mỹ “có trách nhiệm bảo đảm rằng không người Mỹ nào có hành động can thiệp vào Cuba”… và “vấn đề cơ bản ở Cuba không phải giữa Mỹ với Cuba mà là giữa người Cuba với nhau”…

Ngày 14/4/1961, Lữ đoàn 2506 đã rời căn cứ huấn luyện Puerto Cabezas ở Nicaragua để đến điểm tập kết ở Retalhuleu, Guatemala. Đến thời điểm này thì chính quyền cách mạng Cuba đã biết được kế hoạch tấn công của địch, chỉ có điều chưa nắm chính xác thời gian và địa điểm đổ bộ. Bởi vậy, khi phi đội máy bay B-26 đầu tiên của Mỹ bắt đầu ném bom đồng loạt các sân bay vào ngày Chủ nhật 15/4 thì Cuba đã chuẩn bị sẵn sàng đối phó, toàn bộ các máy bay, xe tăng chiến đấu đã được sơ tán, ngụy trang và cất giấu cẩn thận, chỉ có những chiếc hư hỏng, không còn khả năng sử dụng được để lại để tạo hiện trường giả nhằm thu hút hỏa lực của địch.

Trong khi đó, CIA đã phái nhiều điệp viên bí mật xâm nhập Cuba để chuẩn bị cho việc hỗ trợ lực lượng đổ bộ và phá hoại những công trình công cộng bên trong Cuba.

Nửa đêm 16/4/1961, Chiến dịch Pluto chính thức mở màn với một toán người nhái thâm nhập bãi biển Playa Giron và bật tín hiệu dẫn đường cho 6 tiểu đoàn gồm 1.500 phiến quân Cuba lưu vong đổ bộ vào 2 bãi biển Playa Giron và Playa Larga. Manuel Artime được chọn làm thủ lĩnh chính trị cho đội quân xâm lược.

Tuy nhiên, “thiên bất dung gian”, những rặng san hô có hình dạng sắc bén như dao mà máy bay do thám U2 chụp ảnh từ trên không trung khiến cho CIA tưởng nhầm là “rong biển”, đã phá hỏng một số chiến thuyền đổ bộ, làm trì hoãn cuộc đổ bộ đủ lâu để cho kế hoạch xâm lược bị bại lộ. Trong khi đó, CIA và lực lượng đổ bộ cũng không hề biết rằng, 5 dân quân Cuba đã chờ sẵn ở Playa Giron để báo tin về cuộc xâm lược cho các chỉ huy quân đội cách mạng.

3h sáng ngày 17/4, Chủ tịch Fidel Castro đã nắm rõ về cuộc đổ bộ trong đêm và ra lệnh phản công ngay lập tức. Chiếc chiến đấu cơ đầu tiên của Cuba cất cánh giáng đòn chí tử đánh chìm tàu chỉ huy mang tên Maroqa và tàu chở khí tài hạng nặng Houston khi chúng còn cách bờ biển 120km.

Ngay sáng hôm sau cuộc đổ bộ, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Dean Rusk đã tổ chức một cuộc họp báo, tiếp tục lừa bịp dư luận rằng Mỹ “không can thiệp vào Cuba”, rằng “những gì xảy ra ở Cuba là do người Cuba tự quyết định”. Đại sứ Mỹ tại LHQ Adlai Stevenson còn thẳng thừng bác bỏ thông báo của phái đoàn Cuba về hành động xâm lược của Mỹ, bảo rằng đó là máy bay của… quân đội Cuba(?)

Người Mỹ nham hiểm đến độ đã ngụy trang các máy bay B-26 cho giống hệt như máy bay của quân đội Cuba, sử dụng các phi công Cuba lưu vong đóng giả làm phi công Không quân Cuba rồi chụp hình để ngụy tạo rằng các máy bay đó là “của quân đội Cuba”, là “phi công Cuba đào tẩu” nhằm che đậy hành động xâm lược của mình.

Tuy nhiên, “gian mà không ngoan”, máy bay của Cuba là do Liên Xô sản xuất thì giống thế nào được với loại B-26 của Mỹ? Vì vậy, chỉ sau vài giờ kiểm tra các bức ảnh do Đại sứ Stevenson trưng ra, Đại hội đồng LHQ không khó để nhận ra trò lừa bịp của Mỹ.

Bài học đắng cay

Mọi chuyện đổ bể tại Đại hội đồng LHQ khiến Mỹ hết sức bẽ mặt. Đại sứ Mỹ đã rất tức giận và công khai yêu cầu Kennedy “ngưng ngay cuộc xâm lược” để tránh bị mất mặt thêm. 12h trưa ngày 17/4, Tổng thống Kennedy nhận được bức thư của Tổng Bí thư Liên Xô Nikita Khrushchev trong đó viết: “Chẳng có ai mà không biết đội quân xâm lược được người Mỹ huấn luyện, trang bị và vũ trang. Những chiếc máy bay đang thả bom ở các thành phố Cuba và những quả bom được thả xuống đều là của Mỹ”. “…Vẫn còn chưa muộn để tránh đi quá đà…”.

21h ngày 17/4, McGeorge Bundy, trợ lý đặc biệt của Tổng thống Kennedy, đã điện thoại cho tướng chỉ huy CIA C.P. Cabell yêu cầu không triển khai đợt tấn công bãi biển Giron vào sáng hôm sau. Nhưng người Mỹ vẫn chưa chịu bỏ cuộc. Trong tình thế Lữ đoàn 2506 đang bị kẹt và rất cần cứu viện, các máy bay Mỹ lại tiếp tục “vớt cú chót” vào rạng sáng ngày 19/4 nhằm cứu vãn cục diện của quân xâm lược, nhưng mọi chuyện đã quá muộn. Các máy bay Mỹ đã không thoát được phòng tuyến phòng không hiện đại của Cuba.

Kết quả của cuộc xâm lược Vịnh Con heo không gì tệ hơn: toàn bộ 1.500 quân Cuba lưu vong do Mỹ huấn luyện bài bản đã bị quân Cách mạng Cuba tiêu diệt gọn, trong đó hơn 200 tên bị giết, còn lại gần 1.200 tên bị bắt sống, mỗi tên sau đó bị tuyên án 30 năm tù, hầu hết được trả về Mỹ sau 20 năm thương lượng và chính quyền Mỹ chấp nhận bồi thường cho Cuba, ngoại trừ 3 tên bị giam 25 năm.

Phía Mỹ, ngoài những thiệt hại về vật chất, khí tài quân sự còn có 4 phi công bỏ mạng sáng ngày 19/4. Sau khi vụ việc kết thúc, Giám đốc CIA Allen Dulles và các Phó giám đốc Charles P. Cabell và Richard Bissell đều bị cách chức. Nội bộ CIA trở nên xáo trộn nghiêm trọng do những báo cáo sai phạm từ vụ Vịnh Con heo.

Bài học đau đớn nhất của Kennedy và bộ sậu chính quyền ở Washington chính là tư tưởng chủ quan, suy nghĩ viển vông phi thực tế của họ về tiềm lực và ý chí của quân dân Cuba. Chính nhờ tinh thần cảnh giác cách mạng mà Cuba do Chủ tịch Fidel Castro lãnh đạo đã không bị bất ngờ và đã có những bước phòng bị sẵn, kể cả việc tung gián điệp xâm nhập vào hàng ngũ huấn luyện ở Guatemala để nắm thông tin chi tiết từng hoạt động của chúng

An Tôn (tổng hợp)

antg.cand.com.vn

Cuộc săn lùng Osama Bin Laden của ông Gaddafi

Tháng Năm 11, 2011 Bình luận đã bị tắt

Cựu điệp viên MI-5 David Shayler.

Trong thập niên 90 thế kỷ XX, Tổng thống Libya Muammar Gaddafi từng phát lệnh truy nã toàn cầu đối với trùm khủng bố Al-Qaeda Osama Bin Laden. Đây là câu chuyện hoàn toàn có thật, vừa được thuật lại trên báo Die Welt của Đức. Đáng nói hơn, lệnh truy nã đó đã bị Mỹ-Anh cản trở vì một lý do không ai ngờ.

Các tài liệu lưu trữ của Cảnh sát quốc tế (Interpol) đã ghi nhận: Vào ngày 16/3/1998, Bộ Tư pháp Libya đã phát lệnh truy nã quốc tế đối với trùm khủng bố Al-Qaeda Osama bin Laden, với cáo buộc chủ mưu vụ giết hại 2 công dân Đức tại Libya. Sau đó, ngày 15/4/1998, lệnh truy nã đã được gửi đến văn phòng trụ sở chính của Interpol ở Lyon, Pháp. Interpol đã căn cứ vào đó phát lệnh truy nã toàn cầu.

Như vậy, có thể nói rằng Libya là quốc gia đầu tiên phát lệnh truy nã trùm khủng bố Osama bin Laden. Tuy nhiên, lệnh truy nã Interpol của Libya đã bị Mỹ và Anh cản trở .

Cái chết của vợ chồng điệp viên người Đức

Câu chuyện về việc Libya phát lệnh truy nã Osama bin Laden ít được chú ý, bởi chẳng ai tin Libya lại đi truy lùng khủng bố. Lý do đơn giản là vì Libya từng là kẻ thù của Mỹ và châu Âu, từng bị liệt vào danh sách “tài trợ khủng bố”, bị Tổng thống Mỹ George W. Bush đưa vào “trục ma quỷ”. Chả trách luật pháp các nước châu Âu những năm cuối thế kỷ XX cho đến hết thập niên đầu thế kỷ XXI có điều khoản quy định kỳ cục là “cấm đi du lịch đến Libya”(!?)

Thế nhưng đối với vợ chồng điệp viên người Đức Silvan và Vera Becker, điều đó chẳng ý nghĩa gì. Đi đâu, làm gì là “quyền công dân”, hơn nữa Becker lại là người của tình báo bí mật thì càng tự do đi lại.

Cũng cần biết đôi điều về ông Becker: 56 tuổi, là người đứng đầu Phân cục VI thuộc Văn phòng Bảo vệ Hiến pháp – chuyên trách chống khủng bố quốc tế của Cục Chống khủng bố Quốc gia Đức – một đơn vị tình báo nội địa. Là chuyên gia chống khủng bố hàng đầu của Đức, Becker nhiều năm liền là một cố vấn giỏi về thành phần Hồi giáo cực đoan trong thế giới Arập trước khi chuyển sang phụ trách đơn vị giám sát nhóm Tamil cực đoan LTTE ở Sri Lanka.

Đầu tháng 3/1994, nhân một chuyến đi nghỉ trong vùng Trung Đông, Becker và vợ đã nhập cảnh Libya để tham dự một lễ hội truyền thống ở thành phố Sirte, quê hương ông Gaddafi. Theo hồ sơ Cơ quan điều tra Libya, vợ chồng Becker bị bắn trọng thương vào ngày 10/3/1994, ngay khi vừa vào Libya. Hai vợ chồng được đưa vào một bệnh viện quân y để điều trị nhưng do vết thương quá nặng nên bà Vera đã qua đời ngày 28/3, còn ông Becker thì qua đời vào ngày 10/4/1994.

Vấn đề khiến nhiều người thắc mắc là mặc dù biết có lệnh cấm du lịch đến Libya như tại sao vợ chồng Becker lại vào Libya. Một nguồn thông tin cho rằng điệp viên Becker đã tận dụng kỳ nghỉ của hai vợ chồng để thực hiện một nhiệm vụ chuyên môn là tiếp xúc với thành phần Hồi giáo cực đoan Libya. Một ý kiến khác nói rằng Becker là một điệp viên hai mang, vào Libya để thực hiện nhiệm vụ cho một cơ quan tình báo nước ngoài, hoặc cho rằng, Becker tham gia một điệp vụ phối hợp với mật vụ một nước khác,…

Tất cả các giả thuyết này đều bị Văn phòng Bảo vệ Hiến pháp Liên bang Đức bác bỏ, cho rằng không có cơ sở chứng minh. Cho đến nay, 17 năm sau vụ việc đó, thông tin về cái chết của vợ chồng Becker vẫn chưa được tiết lộ.

Thủ phạm là Osama Bin Laden?

17 năm sau cái chết của vợ chồng điệp viên người Đức Becker, sau một thời gian thụ lý vụ án, các nhà điều tra Libya đã trao toàn bộ hồ sơ cho các đồng nghiệp Đức. Kết luận cuối cùng của Cơ quan điều tra Đức cho rằng, thủ phạm chính là thành phần Hồi giáo cực đoan liên quan đến mạng lưới Al-Qaeda của trùm khủng bố Osama bin Laden.

Ngay lập tức, 3 nghi phạm chính đều là người Libya, gồm Faraj Alwan, Faes Abu Zeid Warfali và Faraj Chalabi – thành viên của nhóm khủng bố cực đoan al-Muqatila (Nhóm Chiến binh Hồi giáo Libya) bị cơ quan chức năng bắt giam và xét xử.

Tổng thống Libya Muammar Gaddafi từng là mục tiêu ám sát của nhóm khủng bố al-Muqatila.

Kết luận cho rằng thành phần Hồi giáo là thủ phạm giết chết vợ chồng Becker được một số chuyên gia chống khủng bố thời đó ủng hộ vì một số lý do. Trước hết, al-Muqatila là một nhóm Hồi giáo cực đoan khét tiếng ở Libya, đóng căn cứ ở miền Đông Libya, chủ yếu là thành phố Benghazi. Đây là một trong những nhóm khủng bố đầu tiên tham gia mạng lưới toàn cầu Al-Qaeda của Bin Laden, được thành lập vào những năm đầu thập niên 90 thế kỷ XX bởi các phần tử Hồi giáo cực đoan người Libya tham gia thánh chiến chống quân đội Xôviết ở Afghanistan thập niên 80 thế kỷ XX.

Al-Muqatila từng cưu mang một trong những chiến hữu thân tín nhất của ông trùm Osama bin Laden thời kỳ hoạt động ở châu Phi là Anas al-Liby – hiện vẫn đang nằm trong danh sách truy nã đặc biệt của chính quyền Mỹ, với giá 25 triệu USD được treo cho cái đầu của y. Mục tiêu hoạt động của al-Muqatila là đấu tranh để thành lập một nhà nước thần giáo theo chủ thuyết tương tự như Al-Qaeda.

Jean-Charles Brisard – chuyên gia chống khủng bố hàng đầu nước Pháp và là cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Jacque Chirac – cho rằng, ngoài al-Muqatila, khu vực Bắc Phi thời gian đó còn có nhiều nhóm khủng bố Hồi giáo cực đoan chuyên giết hại người nước ngoài khác, chẳng hạn như Nhóm Hồi giáo vũ trang (AIG) của Algeria từng giết nhiều người phương Tây trong 2 năm 1993-1994, hay như vụ tấn công người nước ngoài ở thành phố Marrakesh của Morocco năm 1994,…

Vậy tại sao lại truy nã Osama bin Laden? Ông ta có từng đến Libya không? Câu trả lời là có, nhưng không nhất thiết vào thời điểm xảy ra vụ sát hại vợ chồng Becker. Theo một số báo cáo an ninh thì Bin Laden từng đến cư trú tại một ngôi làng gần thành phố Benghazi trong một thời gian, và chính trong thời gian này, ông trùm đã có những quan hệ mật thiết với nhóm al-Muqatila.

MI-6 bắt tay khủng bố để ám sát ông Gaddafi?

Riêng về cái chết của điệp viên Becker và vợ, báo chí Anh và Pháp đã tiết lộ thêm có sự dính líu của Cơ quan Tình báo đối ngoại MI-6 của Anh. Chẳng hạn, cựu điệp viên MI-5 David Shayler từng tiết lộ trên báo The Observer của Anh hồi tháng 3/2011 rằng, MI-6 đã từng bắt tay với các sát thủ al-Muqatila nhằm thực hiện một âm mưu ám sát Đại tá Gaddafi.

Theo thỏa thuận, nhóm al-Muqatila nhận lời trà trộn vào đám đông để thủ tiêu ông Gaddafi khi ông tham gia lễ hội đường phố tại thành phố Sirte. Do âm mưu của bọn khủng bố đã bị Becker cản trở, làm cho thất bại nên bọn chúng quay sang sát hại ông. Phải chăng do MI-6 dính líu đến bọn khủng bố trong âm mưu ám sát ông Gaddafi nên nước Anh buộc phải cản trở lệnh truy nã Bin Laden của ông Gaddafi?

Trong quyển sách mới xuất bản nhan đề “Sự thật cấm nói” (Forbidden Truth) của 2 tác giả là nhà báo Pháp Guillaume Dasquié và chuyên gia chống khủng bố Jean-Charles Brisard, MI-6 không chỉ cấu kết mà còn trả tiền để nhóm khủng bố al-Muqatila thực hiện âm mưu ám sát ông Gaddafi. Toàn bộ những câu chuyện về việc MI-6 âm mưu ám sát ông Gaddafi được thuật lại bởi cựu điệp viên Shayler. Shayler cho biết, ông có được những thông tin này là nhờ tiếp cận các tài liệu liên quan đến Libya trong thời gian làm việc ở MI-5 giữa thập niên 90 thế kỷ XX.

Theo Shayler, âm mưu ám sát ông Gaddafi đã được MI-6 phát động từ cuối năm 1995, và ông được các đồng nghiệp bên MI-6 thông báo trong các cuộc họp chính thức giữa 2 cơ quan tình báo này. Đầu năm 1996, MI-6 bắt đầu vạch kế hoạch thực hiện âm mưu ám sát ông Gaddafi. Địa điểm để thực hiện là thành phố Sirte, quê hương ông Gaddafi. Nhóm khủng bố al-Muqatila tiếp tục được MI-6 chọn là đối tác hợp tác trong phi vụ này.

Theo tiết lộ của tờ The Observer, hai sĩ quan tình báo MI-6 được chỉ định trực tiếp liên hệ móc nối với al-Muqatila là Richard Bartlett, mang mật danh “PT16”, được giao tổng phụ trách chiến dịch; và David Watson, mật danh “PT16B”, phụ trách điều khiển một điệp viên nội gián người Libya mang bí danh “Tunworth”.

Thông qua Tunworth, MI-6 đã trao cho đối tác al-Muqatila số tiền 100.000 bảng Anh xem như tiền “thù lao” ứng trước cho phi vụ ám sát ông Gaddafi, nếu thành công sẽ còn thưởng hậu. Tuy nhiên, vụ ám sát ông Gaddafi bất thành sau một trận đấu súng vào tháng 3/1996 tại thành phố Sirte, al-Muqatila không những không đạt được mục đích mà còn thiệt hại nặng, một số tay súng bị giết.

Sau một thời gian điều tra, cuối cùng vào tháng 3/1998, Cơ quan điều tra Libya công bố trên Truyền hình quốc gia, chính thức cáo buộc MI-6 đã tham gia ám sát ông Gaddafi. Có lẽ chính vì vụ việc này mà lệnh truy nã ông trùm Osama bin Laden của chính quyền Libya được phát đi ngày 16/3/1998 đã bị nước Anh (và Mỹ) cản trở?

Về phần Shayler, sau khi đã cung cấp thông tin cho báo chí, ông đã bị Cơ quan An ninh Anh bắt giữ và đưa ra xét xử vào tháng 3 vừa qua, bị tuyên án tù 6 tháng vì tội “tiết lộ tài liệu an ninh quốc gia cho báo chí”. Trong thời gian xét xử Shayler, toàn bộ những thông tin liên quan đến vụ việc MI-6 đều bị kiểm duyệt gắt gao, báo chí không được phép đăng tải, các nhân chứng (2 sĩ quan Bartlett và Watson) bị cấm ra tòa làm chứng, ngay cả bị cáo cũng không được phép biện hộ cho hành động của mình

Quốc Vương – An Châu (tổng hợp)

antg.cand.com.vn

Vì sao Washington cần một “Đế quốc ma tuý”?

Tháng Năm 11, 2011 Bình luận đã bị tắt

Sau khi chế độ Taliban sụp đổ thì ở Afghanistan lại tăng tốc đến mức chóng mặt việc trồng cây thuốc phiện

Từ sau khi Taliban bị lật đổ vào cuối năm 2001, đến nay khối lượng ma túy sản xuất ở Afghanistan đã tăng lên gần 100 lần. Đó là báo cáo mới nhất của LHQ vừa được công bố cuối tháng 8 vừa qua.

Các lực lượng Mỹ và Anh đang chiếm đóng Afghanistan biết rõ tất cả các phòng thí nghiệm, cơ sở sản xuất, cũng như lộ trình vận chuyển ma túy từ đây ra các khu vực khác nhau trên thế giới. Chính Washington và London đã và đang dung túng, khuyến khích sản xuất cái chất giết người này.

Ngày nay, xét trên phạm vi toàn thế giới, thì bất kỳ một cuộc đối đầu quân sự hay một cuộc xâm lược nào cũng đều ảnh hưởng mạnh mẽ tới tình hình không chỉ ở một hai nước, mà hậu quả của nó lan tới hàng loạt nước khác. Cuộc chiến tranh ở Nam Tư và những sự kiện xung quanh vấn đề Kosovo đã làm khuấy động các thế lực ly khai – sắc tộc trên toàn châu Âu.

Cuộc chiếm đóng của liên quân Mỹ – Anh ở Iraq đã làm cho cả Trung Đông nóng bỏng lên, đã chia rẽ khu vực này thành hai phe – những người ủng hộ và những người phản đối cuộc chiến, đồng thời cũng đã biến những cuộc tranh chấp ngoại giao và lãnh thổ trong thế giới Arập thành cuộc đối đầu trực tiếp và tạo điều kiện để Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ thường xuyên tiến hành những chiến dịch quân sự.

Cuộc chiến tranh Iraq và những động thái nhằm chống lại Iran đã trở thành mối đe dọa cho nền kinh tế châu Âu và Đông Á và tiềm ẩn cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu.

Thế nhưng, cuộc tấn công của Mỹ và Anh ở Afghanistan đã tạo ra cho cả thế giới một vấn đề hoàn toàn khác. So với những cuộc chiến tranh và đối đầu quân sự nói trên, nó còn sâu sắc và nguy hại hơn rất nhiều, trên thực tế chưa thể đánh giá hết. Nhiều giới quan sát và phân tích chiến lược cho rằng đây sẽ là một thảm họa địa – chính trị, có thể phá hoại hàng loạt thế hệ con người.

Báo cáo hàng năm của LHQ vừa được công bố đã minh chứng cho nhận định đó. Theo những số liệu chính thức, Afghanistan chiếm tới 93% toàn bộ cây nguyên liệu sản xuất ma túy trên hành tinh chúng ta. Chỉ riêng năm 2006 Afghanistan đã thu hoạch sản lượng thuốc phiện tăng 35% và trong 2 năm gần đây tăng hơn hai lần.

Sở dĩ sản lượng thuốc phiện tăng mạnh như vậy là vì có sự dung túng và khuyến khích của quân chiếm đóng. Báo cáo của LHQ còn nêu rõ rằng, tại tỉnh Guilmand, nơi quân Anh đang chiếm đóng, đã trở thành địa danh đứng đầu thế giới về sản xuất hêrôin.

Ngày 7/10/2001, Mỹ và Anh bắt đầu tiến hành trên lãnh thổ Afghanistan “Chiến dịch chống khủng bố”, nhằm chống lại mạng lưới khủng bố quốc tế Al-Qaeda. Thế nhưng, 6 năm trôi qua, những mục tiêu mà Washington và London tuyên bố khi đó đã không thể thực hiện.

Tên trùm khủng bố số 1 Bin Laden vẫn chưa bị tiêu diệt. Trong khi đó, từ sau khi lật đổ chế độ Taliban, thì ở Afghanistan lại bắt đầu tăng tốc đến mức chóng mặt việc trồng cây thuốc phiện.

Năm 2002, Afghanistan đã tăng sản lượng cây thuốc phiện và do đó tăng khối lượng điều chế hêrôin lên 1.400%, nghĩa là bằng với khối lượng của những năm 90 thế kỷ trước, khi mà trên lãnh thổ đất nước này tập trung tới 70% sản lượng cây thuốc phiện của cả thế giới.

Năm 2001, năm cuối cùng dưới sự điều hành đất nước của Taliban, Afghanistan thu hoạch 185 tấn nguyên liệu thuốc phiện. Chỉ 1 năm sau, năm 2002 chỉ số này đã lên tới 1.900 – 2.700 tấn, năm 2003 – hơn 7.000 tấn, năm 2004 – 12.000 tấn và 2 năm 2005-2006 đều ở mức trên 15.000 tấn. Như vậy, trong 2 năm gần đây, mỗi năm Afghanistan sản xuất 810 tấn hêrôin thuần khiết.

Năm năm qua (2002-2006) người sản xuất ma túy Afghanistan trong sự hợp tác cùng với các thế lực chiếm đóng đã tạo ra cả một cơ cấu nền tảng của chất giết người – từ khâu tổ chức sản xuất với những thiết bị hiện đại, đến cơ sở hạ tầng rất hoàn chỉnh về tài chính – tín dụng và ngân hàng, mà ngay cả đến các trùm kinh doanh trên thế giới cũng phải ghen tị.

Như một dây chuyền công nghiệp khép kín: Từ trồng trọt, thu hoạch cây thuốc phiện trên những cánh đồng, thu gom tập trung, đưa vào sản xuất chế biến thành moọcphin và hêrôin, đến bảo đảm vận chuyển tới các nước tiêu thụ.

Sản xuất thuốc phiện truyền thống trên thế giới lâu nay thường tập trung ở 3 khu vực: Lưỡi liềm vàng (gồm ba nước Afghanistan, Pakistan và Iran), Tam giác vàng (gồm 3 nước Myanmar, Thái Lan và Lào) và Trung Mỹ (gồm 3 nước Colombia, Venezuela và Bolivia).

Thế nhưng, với sự tăng trưởng siêu tốc cây nguyên liệu thuốc phiện và sản xuất hêrôin ở Afghanistan từ cuối năm 2001 đến nay, thì tất cả các địa danh trên không thể nào còn so sánh được nữa. Vào đầu những năm 2000, giá bán buôn hêrôin ở Bangkok (Thái Lan) là 10 nghìn USD/kg, còn ở biên giới Pakistan và Afghanistan trước khi được gửi theo đường biển giá 1 kg hêrôin chỉ 650 USD.

Phải chăng vì nguồn lợi nhuận khổng lồ như vậy, nên Washington và London đã bằng mọi cách thao túng và khuyến khích từ khâu trồng cây nguyên liệu, sản xuất và chế biến thành sản phẩm ma túy thuần khiết, đến khâu bảo đảm các lộ trình vận chuyển, đưa ma túy tràn ngập thị trường các nước thù địch, cũng như các nước cạnh tranh.

Đương nhiên, mục tiêu hiển hiện là lợi nhuận khổng lồ, không một ngành kinh doanh nào có thể so sánh. Nhưng thâm thúy và sâu xa, có tác hại ghê gớm, mà cho đến nay chưa đánh giá đầy đủ – đây chính là một thứ vũ khí hủy hoại sinh lực đối phương, làm tổn hại đời sống tinh thần và thể chất của một bộ phận không nhỏ tầng lớp thanh thiếu niên ở các nước mà Washington muốn nhằm vào. Đương nhiên, từ ma túy còn nảy sinh biết bao vấn đề xã hội phức tạp khác nữa

Ngô Gia Sơn (theo Pravda)

antg.cand.com.vn

Nữ tướng Võ Nhai

Tháng Năm 6, 2011 Bình luận đã bị tắt

Bà Trần Thị Minh Châu khi là Bí thư Tỉnh ủy Hà Đông (1942).

Sau một hồi lòng vòng dọc phố Đội Cấn, tôi đã tìm được “Nữ tướng Võ Nhai”. Bà là Trần Thị Minh Châu, nguyên Cục trưởng Cục Xuất bản – báo chí thuộc Bộ Văn hóa Thông tin, đồng thời là phu nhân ông Đào Duy Kỳ – một nhà cách mạng tiền bối xuất sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam – Viện trưởng đầu tiên Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.

Mùa xuân năm Canh Dần (2010), bà 89 tuổi đời, 70 năm tuổi Đảng. Với giọng nói ấm áp nhẹ nhàng, từng câu chuyện nhỏ cứ theo ký ức lần lượt nối tiếp nhau trở về xen lẫn với hương hoa ngoài ban công tỏa khắp phòng khách nhỏ yên tĩnh.

Ngọc sáng Đồng Xuân

Năm 16 tuổi, cô thanh nữ Trần Thị Nguyệt Lãng (tên khai sinh của bà Trần Thị Minh Châu) đã rời Hải Dương lên Hà Nội hoạt động trong phong trào Thanh niên Dân chủ của Mặt trận Bình dân. Từ thuở ban đầu bán sách báo cách mạng ở chợ Đồng Xuân, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ, “viên ngọc sáng Đồng Xuân” ấy nhanh chóng tỏa rạng nên 2 năm sau, tháng 4/1940 cô đã được đồng chí Hoàng Văn Thụ chính thức kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.

Ở tuổi 20 cô đã lần lượt làm Bí thư Tỉnh ủy của các tỉnh: Hà Đông, Sơn Tây, Hưng Yên, nơi nào phong trào gặp khó khăn vì bị khủng bố ác liệt là người nữ Bí thư Tỉnh ủy mang các bí danh cô Mai, cô Ba lại có mặt.

Sau khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940) lực lượng vũ trang cách mạng có những tổn thất nặng nề. Các đồng chí Phùng Chí Kiên, Lương Văn Tri hy sinh… Tháng 5/1941, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 đã quyết định duy trì Đội du kích Bắc Sơn và thành lập căn cứ địa rộng lớn lấy Bắc Sơn – Võ Nhai làm trung tâm, đồng thời thành lập lực lượng vũ trang lấy tên gọi mới là Cứu Quốc quân (CQQ) do đồng chí Hoàng Quốc Việt và một số đồng chí nữa chỉ huy.

Tháng 2/1944, đồng chí Hoàng Quốc Việt, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng kiêm Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ lên chiến khu kiểm tra tình hình và chỉ đạo hoạt động của CQQ. Sau khi nghe báo cáo và kiểm tra thực tế, đồng chí Hoàng Quốc Việt đã triệu tập một cuộc họp cán bộ tại Khuổi Kịch (Sơn Dương, Tuyên Quang) để truyền đạt nghị quyết của Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (2/1943) về xây dựng căn cứ địa, củng cố và phát triển lực lượng vũ trang. Cuộc họp đã quyết định thành lập các trung đội CQQ.

Trung đội Đệ nhị CQQ do đồng chí Trần Thị Minh Châu mang bí danh là Vũ – Xứ ủy viên, Bí thư Ban cán sự (Bí thư Tỉnh ủy) tỉnh Hưng Yên – làm Chính trị viên. Gánh nặng đặt trực tiếp lên vai người nữ Bí thư 22 tuổi mưu trí, dũng cảm và xông xáo: xây dựng phong trào ở Võ Nhai – Đình Cả, khôi phục cơ sở Đảng đã bị phá vỡ sau khởi nghĩa Bắc Sơn.

Đến nơi công tác mới, việc đầu tiên được người nữ Chính trị viên bắt tay vào làm là liên hệ với số đảng viên ở địa phương để cùng nhau bàn việc lập ngay chi bộ để làm hạt nhân lãnh đạo và xây dựng phong trào. Sau đó đồng chí Vũ (Trần Thị Minh Châu) phân công các đồng chí khác đi tuyên truyền tổ chức hội viên mới, bắt mối liên lạc với bà con đã được giác ngộ trước đây. Vì vậy, chỉ trong một thời gian sau đó, Ban Chấp hành Việt Minh được thành lập. Rồi phong trào Việt Minh phát triển rộng với các hội Phụ nữ Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc và có cả Nhi đồng Cứu quốc.

Bà Trần Thị Minh Châu (thứ 3 từ phải sang) và Đội du kích Võ Nhai.

Giữa lúc phong trào đang phát triển mạnh mẽ với các lớp học quân sự, các lớp học chính trị phổ thông được đông đảo các tầng lớp nhân dân theo học, nhiều cuộc mittinh kỷ niệm các ngày lễ lớn được tổ chức, thì tháng 10/1944, thực dân Pháp mở cuộc khủng bố ác liệt vào Võ Nhai – Đình Cả.

Trước đó do cơ sở của ta là đồng chí Cát Lượng – cán bộ của Ban lãnh đạo Việt Minh (đồng thời đương chức phó lý) và đồng chí Việt Cường – một nhân mối (người của Việt Minh cài sẵn) ở trong đồn Đình Cả đã kịp thời thông báo cho Ban lãnh đạo Việt Minh Võ Nhai biết âm mưu của địch. Nên khi nhận được tin báo, Ban lãnh đạo Phân khu A (Phân khu Quang Trung): đồng chí Vũ (Trần Thị Minh Châu) – Bí thư chi bộ kiêm Chính trị viên, đồng chí Hà Châm – Chỉ huy trưởng, đồng chí Quốc Hưng – Chỉ huy phó, đồng chí Thái Long và đồng chí Hồng Kỳ – Ủy viên Ban Chỉ huy CQQ đã kịp thời có biện pháp đối phó. CQQ tiêu diệt tên Phó tổng Tý, Tổng đoàn Thương, tên Dầu Châu chỉ huy lính dõng của xã là những tên tay sai nguy hiểm có nhiều nợ máu với nhân dân.

Nữ tướng Võ Nhai

Đang chăm cây lưỡi hổ vừa trổ hoa trên ban công, bà nghỉ tay: “Tôi biết cây lưỡi hổ từ lâu, vậy mà đến bây giờ khi về già rồi mới biết hoa này rất đẹp, anh xem…”. Vừa nâng niu những gốc cây trong góc vườn nhỏ tự tạo, bà Minh Châu lại tiếp tục câu chuyện: “Nhiệm vụ của tôi lên Võ Nhai là làm công tác chính trị, xây dựng cơ sở Đảng. Khi thực dân Pháp đánh lên, chúng tôi bị động đối phó – bà cười, nụ cười thanh thản pha chút bông đùa – chứ đâu phải có tư tưởng nữ tướng như ai đó kết luận…”.

CQQ phá cầu Trúc Mai ở cây số 25 đường Thái Nguyên đi Đình Cả cắt đứt liên lạc của địch từ Thái Nguyên lên Đình Cả. Sáu lần địch cho liên lạc về Thái Nguyên để xin chi viện đều bị ta bắt. Liên tiếp sau đó CQQ cùng tự vệ đánh đồn Quang Thái, đồn Đình Cả, tịch thu súng dõng, bắt 10 tên mật thám ở Lâu Thượng. Vì vậy cuộc lùng sục của địch không đạt kết quả. Chúng phải tăng cường thêm lính dõng và huy động nhiều chỉ điểm địa phương tham gia.Trong đợt khủng bố này thực dân Pháp tăng cường 1.000 lính khố đỏ thuộc Trung đoàn số 9 do tên Tiểu đoàn trưởng Milơ (Mille) chỉ huy. Sau đó chúng lại điều thêm 1.000 lính lê dương Âu – Phi có máy bay yểm trợ cùng những tên mật thám khét tiếng gian ác xung trận.

Để tránh mũi nhọn của kẻ thù, du kích luồn vào rừng, giặc đuổi ta chạy vòng tròn. Chúng vây ráp ngày càng dữ, chúng khủng bố các cơ sở trong bản và cả thường dân. Nhân dân không chịu nổi cảnh khủng bố kìm kẹp, bắt người tra khảo, đốt phá nhà cửa thóc lúa… đã tự động chạy vào rừng. Số người vào rừng mỗi ngày một đông, có cả người già và trẻ em.

Trước tình hình đó, Ban lãnh đạo quyết định: Tổ chức đưa dân tạm lánh xa làng, đi sâu vào rừng, rồi lên hang Mỏ Gà: một hang rộng có thể chứa và cung cấp nước uống đủ cho một số lượng lớn nhân dân. Còn CQQ ban đêm tổ chức những trận đánh nhỏ lẻ tiêu diệt sinh lực địch. Đầu tháng 11/1944, CQQ cử liên lạc lên báo cáo cấp trên xin viện trợ và chỉ đạo nhưng càng chờ càng không có tin tức gì.

Qua những trận đánh, anh em rất phấn chấn về tinh thần, kinh nghiệm trận mạc thêm dày dặn, số vũ khí thu cướp được tăng lên nhiều đảm bảo trang bị cho hai tiểu đội.

Bà Trần Thị Minh Châu hiện nay.

Ngày 18/11/1944, Cung Đình Vận – Tuần phủ Thái Nguyên – khét tiếng với thành tích diệt Cộng sản tức tối trực tiếp chỉ huy cuộc càn quét lên Đình Cả với quyết tâm chuyến này bắt bằng được “con nữ tướng Võ Nhai”.

Biệt danh “Nữ tướng Võ Nhai” do chính Tuần phủ họ Cung này gọi đầu tiên, để rồi nhắc đến bà Trần Thị Minh Châu là nhắc đến “Nữ tướng Võ Nhai”.

Cung Đình Vận bị du kích bắn bị thương phải bỏ cuộc, rút quân về Thái Nguyên.

Sang cuối tháng 11, thực dân Pháp tiếp tục tăng cường khủng bố và địch đã phát hiện ra hang Mỏ Gà. Chúng điên cuồng đem 2 Tiểu đoàn lê dương do tên Mátxây (Massei) chỉ huy kéo lên bao vây từ ba mặt: Lạng Sơn, Bắc Giang, Thái Nguyên. Nhân mối của ta trong đồn đã báo tin này hai ngày trước khi chúng hành quân.

Mùa đông năm Giáp Thân ((1944) lạnh buốt như kim châm vào da thịt. Tờ mờ sáng ngày 27/11/1944, sương mù còn dày đặc, thực dân Pháp đã đặt pháo trên mặt đường phía trước bắn lên núi thăm dò. Sau đó chúng tổ chức làm nhiều đợt tấn công lên núi. Ỷ vào quân số lớn, trang bị vũ khí tối tân, đạn dược nhiều vô kể nên nhiều lần lính Pháp hung hãn xông lên nhưng liền bị đánh bật trở lại chẳng khác gì những đợt sóng cồn ngoài biển khơi ào ào xô vào bờ rồi lại ào ào rút nhanh ra.

Đến 14 giờ, sau khi quân ta đã bí mật khôn khéo rời trận tuyến, cả hai tiểu đội cuối cùng rút về căn cứ an toàn trận chiến mới kết thúc đánh dấu sự thất bại cay đắng của thực dân Pháp. Đó là chiến thắng mà về phía CQQ không có tổn thất về người. Sau vụ này thực dân Pháp đã phải thừa nhận: “Cuộc hành quân ngày 27/11 vừa qua ở vùng Mỏ Gà do ông Mátxây chỉ huy đã gửi về 150 người dân đàn ông đàn bà và trẻ con, trong đó có một phiến loạn quan trọng là phó ty Mỏ Gà… Phiến loạn vùng này ở trong những chiến lũy nhỏ đã gây được một số tổn thất cho ta. Chúng chống ta bằng cách lăn đá tảng xuống đạo binh của ta…”. (Tài liệu rút trong tập hồ sơ của Pháp hiện lưu trữ tại Bảo tàng Đình Cả – Võ Nhai).

Sau chiến thắng Mỏ Gà, Trần Thị Minh Châu (lấy bí danh là chị Chi) đã được điều động về làm thư ký cho Ủy ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng đóng tại Tân Trào.

* * *

Hơn 60 năm sau chiến thắng Võ Nhai, bà Trần Thị Minh Châu có dịp trở lại Thái Nguyên, khoảng thời gian đủ để một đời người nếm lửa thử vàng. Tiếng trong ngần của chú chim họa mi ngoài ban công ngân lên như khúc nhạc đệm hòa vào lời kể của “Nữ tướng Võ Nhai”:

“Ban lãnh đạo Việt Minh Võ Nhai ngày ấy chỉ có hai cán bộ là người Kinh, còn tất cả đều là người dân tộc thiểu số, một mình tôi là nữ còn tất cả đều là nam. Chính các anh là những người có công nhất trong chiến thắng Võ Nhai. Ngày ấy gian khổ là thế nhưng anh em sống rất vui vẻ, lạc quan, địch truy kích mà anh em vẫn văn nghệ hát vang, tuổi trẻ mà. Thời gian qua đi, nhiều việc tôi đã quên hết nhưng tình cảm của bà con đồng bào dân tộc thiểu số, cùng gương mặt những đồng chí Hà Châm, Quốc Hưng, Thái Long, Hồng Kỳ… đêm đêm lại hiển hiện về rất rõ trong tâm trí tôi. Tôi không bao giờ quên được… Tôi như đang gặp lại các đồng chí một thời vào sinh ra tử cùng mình…”

Kiều Mai Sơn

cand.com.vn